Cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO

Đồng thuận ngược là gì? Cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO? Những khó khăn, thách thức khi áp dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO?

cơ chế giải quyết tranh chấp trong WTO
Cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO

Hiện nay, nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế ngày càng phát triển và sự phát triển này sẽ dẫn đến những xung đột, tranh chấp xuyên quốc gia xuất hiện ngày càng khó giải quyết. Vì vậy, các quốc gia phải có cơ chế giải quyết tranh chấp và về vấn đề phải có sự đồng thuận, đặc biệt là sự đồng thuận ngược giữa các quốc gia. Vậy đồng thuận ngược là gì? Cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO?

Cơ sở pháp lý:

– Hiệp định số 248/WTO/VB về Quy tắc và Thủ tục điều chỉnh việc giải quyết tranh chấp-Biên bản ghi nhớ

1. Đồng thuận ngược là gì?

Việc giải quyết các tranh chấp thương mại phát sinh giữa các nước thành viên WTO được giải quyết theo các quy định của WTO. Việc thông qua Thỏa thuận về Quy tắc và Thủ tục giải quyết tranh chấp (Biên bản ghi nhớ) đã tạo cơ sở pháp lý cho việc giải quyết các tranh chấp đó. Cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO – DSB (Dispute Settlement Body) chính là Đại hội đồng WTO, đây là vừa là cơ quan thường trực và vừa là cơ quan tiến hành giải quyết tranh chấp (DSB).

Do vậy, khi tiến hành giải quyết các tranh chấp phát sinh giữa các nước thành viên trong WTO, DSB ngoài tuân thủ các nguyên tắc cơ bản như nguyên tắc công khai và thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh, nguyên tắc bảo hộ thông qua thuế quan, nguyên tắc tiếp cận thị trường, nguyên tắc không phân biệt đối xử,… thì DSB cần tuân thủ theo nguyên tắc sau:

Nguyên tắc “đồng thuận phủ quyết” hay còn gọi là nguyên tắc “đồng thuận nghịch”:

– Căn cứ theo quy định Điều 2.4 Thỏa thuận ghi nhận về các quy tắc và thủ tục điều chỉnh việc giải quyết tranh chấp quy định: Khi các thủ tục, quy tắc của Thỏa thuận về ghi nhận các quy tắc và thủ tục điều chỉnh việc giải quyết tranh chấp quy định DSB phải ra quyết định, thì DSB phải ban hành ra quyết định trên cơ sở sự đồng thuận của các bên. Cần lưu ý rằng DSB được coi là đã quyết định đồng thuận về vấn đề được đệ trình lên DSB để xem xét, trường hợp không có Thành viên nào tại cuộc họp của DSB sẽ quyết định về vấn đề này và chính thức phản hồi quyết định đã được đề xuất.

Tại Điều 6.1. Thỏa ước quy định, trường hợp bên nguyên đơn có yêu cầu, một ban hội thẩm phải được thành lập chậm nhất là tại cuộc họp của DSB tiếp theo cuộc họp mà tại đó yêu cầu này lần đầu tiên được đưa ra như một mục của chương trình nghị sự DSB, trừ trường hợp tại cuộc họp đó DSB quyết định trên cơ sở đồng thuận không thành lập hội thẩm.

Điều 16.4 Thỏa ước quy định:

Trong vòng 60 ngày sau ngày chuyển báo cáo của ban hội thẩm tới các Thành viên, báo cáo này phải được thông qua tại phiên họp DSB, trừ khi một bên tranh chấp chính thức thông báo cho DSB về quyết định kháng cáo của mình hoặc DSB quyết định trên cơ sở đồng thuận không thông qua bản báo cáo này. Nếu một bên đã thông báo về quyết định kháng cáo của mình, DSB có nhiệm vụ không xem xét việc thông qua báo cáo của ban hội thẩm cho đến khi việc kháng cáo được hoàn tất. Việc thông qua như vậy với điều kiện là nó không ảnh hưởng đến quyền của các thành viên bày tỏ ý kiến ​​về báo cáo của ban hội thẩm.

Điều 17.14 Thông qua báo cáo của Cơ quan phúc thẩm

Báo cáo của Cơ quan Phúc thẩm sẽ được DSB thông qua và được các bên tranh chấp chấp nhận vô điều kiện, trừ khi DSB quyết định bằng sự đồng thuận không thông qua báo cáo của Cơ quan Phúc thẩm trong vòng 30 ngày sau khi báo cáo được gửi tới các Thành viên. Thủ tục thông qua này sẽ không ảnh hưởng đến quyền của các Thành viên bày tỏ quan điểm của họ về báo cáo của Cơ quan phúc thẩm.

Theo quy định trên, việc DSB quyết định thành lập ban hội thẩm và thông qua các báo cáo của ban hội thẩm và Cơ quan phúc thẩm đều dựa trên nguyên tắc đồng thuận phủ quyết hay còn gọi là sự đồng thuận phủ quyết. . Do đó, nguyên tắc đồng thuận ngược nên được hiểu là trong mọi trường hợp, một ban hội thẩm được thành lập để giải quyết tranh chấp, và các báo cáo của ban hội thẩm và Cơ quan phúc thẩm đều được thông qua, trừ trường hợp DSB nhận được sự đồng thuận về việc liệu có hay không không thành lập ban hội thẩm thông qua báo cáo của ban hội thẩm Cơ quan phúc thẩm.

Do đó, việc thành lập ban hội thẩm có thể được thành lập tự động trên cơ sở yêu cầu của người nộp đơn và các báo cáo sẽ tự động được thông qua. Đây là điểm độc đáo và tiến bộ trong cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO so với tiền lệ GATT năm 1947.

2. Cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO:

Cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO dựa trên 4 nguyên tắc: nhanh chóng, công bằng, chấp nhận được và hiệu quả tranh chấp của các bên nhằm đảm bảo tuân thủ quyền và nghĩa vụ của các bên trong các hiệp định thương mại liên quan trên cơ sở tôn trọng luật tập quán quốc tế.

Cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO bao gồm:

Thứ nhất, cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO

Cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO – DSB (Dispute Settlement Body) chính là Đại hội đồng WTO, đây là vừa là cơ quan thường trực và vừa là cơ quan tiến hành giải quyết tranh chấp (DSB), DSB có một chủ tịch riêng và thành viên trong DSB chính là các đại diện của các nước thành viên trong Đại hội đồng, ngoài ra DSB được hỗ trợ bởi Ban thư ký của WTO quan trong quá trình tiến hành các thủ tục giải quyết tranh chấp.

DSB có thẩm quyền sau:

– DSB có thẩm quyền thành lập Ban hội thẩm nhằm giải quyết từng tranh chấp khi có yêu cầu của nguyên đơn; thành lập và tiến hành giám sát hoạt động của Cơ quan phúc thẩm.

– DSB phải đảm bảo, giám sát việc thực thi phán quyết, khuyến nghị của cơ quan Ban hội thẩm và Cơ quan phúc thẩm thông qua việc cho phép/không cho phép áp dụng biện pháp trả đũa hoặc đình chỉ thi hành các nhượng bộ cũng như nghĩa vụ khác căn cứ theo hiệp định có liên quan.

DSB có các chức năng sau:

– Đảm bảo giám sát thực hiện thi hành Thỏa thuận DSU với mục đích tạo dựng, duy trì cơ chế giải quyết tranh chấp công khai, thông nhất, hiệu quả và khách quan;

– Giải quyết các tranh chấp phát sinh giữa các quốc gia thành viên theo các nguyên tắc, trình tự thủ tục theo DSU và DSB có chức năng đưa ra phán quyết cuối cùng về tranh chấp này;

– Ban hành, xây dựng quy định về thủ tục giải quyết tranh chấp nhằm bảo đảm nghĩa vụ thực thi Thỏa thuận DSU của các bên.

Thứ hai, quy chế “Nhóm chuyên gia”:

– Nhóm chuyên gia do DSB thành lập có chức năng giải quyết tranh chấp cụ thể, sau khi kết thúc nhiệm vụ nhóm chuyên gia này sẽ giải thể. – Nhóm chuyên gia được lựa chọn chủ yếu trong số các chuyên gia độc lập với điều kiện họ không làm việc cho Chính phủ; Nhóm chuyên gia này phải có uy tín quốc tế về luật thương mại quốc tế hoặc chính sách liên quan đến thương mại quốc tế, mỗi nhóm chuyên gia gồm từ 03 đến 05 người.

– Hội đồng chuyên gia có trách nhiệm hỗ trợ các cơ quan giải quyết tranh chấp làm rõ nội dung tranh chấp, khuyến nghị giải pháp cho các bên tranh chấp, tìm kiếm thông tin từ các nguồn khác và xin ý kiến ​​chuyên gia.

– Thời hạn giải quyết tranh chấp tối đa không quá 1 năm kể từ thời điểm các bên tranh chấp cùng nhau thương lượng cho đến thời điểm ban chuyên gia báo cáo với DSB. Thời hạn tối đa để thành lập hội đồng chuyên gia là không quá 06 tháng kể từ thời điểm thành lập hội đồng chuyên gia cho đến thời điểm nộp báo cáo cho DSB.

– Đối với tranh chấp liên quan đến thực phẩm dễ hỏng, thời hạn gửi báo cáo của nhóm chuyên gia cho các bên tranh chấp và các thành viên liên quan là 3 tháng và cho các nước thành viên WTO chậm nhất là 3 tuần. . Trong thời hạn 6 tháng, báo cáo của nhóm chuyên gia phải được gửi cho các bên tranh chấp. Sau 60 ngày, báo cáo của ban hội thẩm đương nhiên trở thành phán quyết của DSB nếu không có sự đồng thuận giữa các quốc gia thành viên WTO.

Thứ ba, cơ quan phúc thẩm thường trực

WTO thành lập Cơ quan phúc thẩm thường trực gồm 7 thành viên, do Cơ quan giải quyết tranh chấp bổ nhiệm và có nhiệm kỳ 4 năm. Các thành viên của Cơ quan phúc thẩm thường trực đều là những chuyên gia pháp lý và kinh doanh quốc tế giàu kinh nghiệm.

Chức năng xem xét quá trình kháng cáo và trình bày các báo cáo cho hội đồng chuyên gia theo yêu cầu của các bên tranh chấp là chức năng chính của cơ quan kháng cáo thường trực. Cơ quan phúc thẩm thường trực đệ trình báo cáo của mình lên DSB và việc DSB thông qua báo cáo của cơ quan phúc thẩm thường được thông qua một cách tự động.

3. Khó khăn và thách thức trong việc áp dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO:

Hiện nay, nhiều thông báo về giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế của WTO có thời hạn giải quyết khá dài so với DSU bởi nếu kéo dài thời hạn sẽ ảnh hưởng đến quyền, lợi ích, thời gian và chi phí của các bên tranh chấp. Các vấn đề pháp lý khác trong cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO qua quá trình áp dụng đã bộc lộ những hạn chế, như cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO chưa đưa ra giải pháp dứt điểm cho tranh chấp; Cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO hiện chưa có biện pháp khắc phục tạm thời để bảo vệ quyền và lợi ích thương mại của bên thắng kiện.

Nội dung bài viết:

    Hãy để lại thông tin để được tư vấn

    comment-blank-solid Bình luận

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo