Đường lối công nghiệp hóa của Đảng Cộng sản Việt Nam

CHƯƠNG IV

ĐƯỜNG LỐI CÔNG NGHIỆP HÓA

th?id=OIP

Lịch sử công nghiệp hóa toàn cầu cho đến nay đã kéo dài hơn 200 năm, kể từ cuộc Cách mạng Công nghiệp ở Anh cuối thế kỷ 18. Cuộc cách mạng công nghiệp này sau đó đã nhanh chóng lan rộng sang các nước Tây Âu và các nước khác như một xu thế phát triển mới của thế giới. Khi đó, một cách dễ hiểu, công nghiệp hóa đơn giản là quá trình thay thế lao động chân tay bằng lao động máy móc, nhằm biến một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước công nghiệp phát triển. Tuy nhiên, do đặc điểm kinh tế, chính trị, xã hội mà quá trình phát triển CNH ở mỗi nước có những điểm khác nhau. Ở Việt Nam, có thể chia con đường công nghiệp hóa thành hai thời kỳ chính là trước và sau công cuộc đổi mới (Đại hội Đảng lần thứ VI - 1986).

I. Công nghiệp hóa thời kỳ trước đổi mới (1960 - 1986)

1. Đường lối công nghiệp hóa của Đảng

a. Mục tiêu và phương hướng công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa

- Đường lối công nghiệp hóa đất nước được hình thành từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III (9/1960) của Đảng. Quá trình công nghiệp hóa của nước ta đang diễn ra trong bối cảnh tình hình quốc tế và trong nước còn nhiều diễn biến phức tạp, bất lợi. Sau 4 năm công nghiệp hóa (1960 - 1964), đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh phá hoại ra miền Bắc. Đất nước phải trực tiếp thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: miền Bắc chống chiến tranh phá hoại và xây dựng kinh tế, miền Nam lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc. Khi đất nước vừa thống nhất (1975), cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội được mấy năm thì xảy ra chiến tranh biên giới phía Bắc, kết thúc cuộc chiến tranh này dẫn đến sự cấm vận của Mỹ. Như vậy, trước thời kỳ Đổi mới, nước ta đã trải qua khoảng 25 năm công nghiệp hóa theo hai giai đoạn: 1960 - 1975 công nghiệp hóa ở miền Bắc và 1975 - 1985 công nghiệp hóa trên phạm vi cả nước, giai đoạn này có mục tiêu và phương hướng rõ ràng.
- Ở miền Bắc, đặc điểm lớn nhất là kinh tế nông nghiệp lạc hậu, tiến thẳng lên CNXH không phát triển CNTB, mặt khác vừa phải xây dựng CNXH vừa phải chống Mỹ. . Xuất phát điểm của Việt Nam khi bước vào thực hiện công nghiệp hóa là rất thấp. Năm 1960, công nghiệp chiếm 18,2% và 7% công tác xã hội; nông nghiệp chiếm tỷ trọng tương ứng là 42,3% và 83%. Sản lượng lương thực/người dưới 300 kg; GDP/người dưới 100 USD. Trong khi phân công lao động chưa phát triển, hiệu quả sản xuất còn ở mức thấp, công tác kế hoạch hóa sản xuất đã đẩy đến mức tập thể hóa, quốc hữu hóa là chủ yếu (khoảng 1960: 85,8% nông dân tham gia hợp tác xã; 100% hộ tư sản bị cải tạo, gần 80% thợ thủ công cá thể tham gia hợp tác xã thủ công). Trong bối cảnh đó, Đại hội III của Đảng đã xác định rõ mục tiêu cơ bản của công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là xây dựng một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa cân đối và hiện đại; trước hết xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Đây là một mục tiêu dài hạn cơ bản phải đạt được trong nhiều giai đoạn.
Về cơ cấu kinh tế, Đảng đã xác định: phải kết hợp công nghiệp với nông nghiệp, lấy công nghiệp nặng làm cơ sở. (Tỷ trọng giá trị công nghiệp tăng từ 18,2%/1960 lên 22,2%/1965; 26,6%/1971; 28,7%/1975)

Về phương hướng thực hiện công nghiệp hóa, Hội nghị Trung ương 7 (khóa III) đã chỉ ra phương hướng chỉ đạo xây dựng và phát triển công nghiệp như sau:

• Ưu tiên hợp lý phát triển công nghiệp nặng.
• Gắn kết chặt chẽ giữa phát triển công nghiệp và phát triển nông nghiệp.
• Phấn đấu phát triển công nghiệp nhẹ đi đôi với ưu tiên phát triển công nghiệp nặng. (Vốn đầu tư cho công nghiệp nặng thời kỳ 1960 - 1975 tăng 11,2 lần, công nghiệp nhẹ tăng 6,9 lần, nông nghiệp tăng 6 lần)

•Ra sức phát triển công nghiệp trung ương đồng thời đẩy mạnh phát triển công nghiệp địa phương. (Hình thành các trung tâm công nghiệp như Hải Phòng, Quảng Ninh, Việt Trì, Thái Nguyên, Nam Định...)

=> Thực chất đó là sự lựa chọn mô hình chiến lược CNH thay thế nhập khẩu mà nhiều nước XHCN và tư bản chủ nghĩa đã thực hiện lúc bấy giờ. Chiến lược này được duy trì trong 15 năm ở miền Bắc (1960-1975) và 10 năm tiếp theo trên cả nước (1976-1986).
- Trên phạm vi cả nước, sau đại thắng mùa Xuân 1975, cả nước được độc lập, thống nhất và đi lên chủ nghĩa xã hội. Chiến lược “Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng…” tiếp tục được tái khẳng định sau 16 năm tại Đại hội Đảng lần thứ IV (1976), nhưng chủ trương có chút thay đổi thành “Đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, xây dựng chủ nghĩa xã hội vật chất - kỹ thuật, nhằm đưa nền kinh tế nước ta từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, kết hợp xây dựng công nghiệp và nông nghiệp trong cả nước thành một cơ cấu kinh tế công nông, đồng thời xây dựng trung ương có phát triển kinh tế địa phương, kết hợp kinh tế trung ương với kinh tế địa phương thành một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất.

Những thay đổi trong chính sách công nghiệp hóa, mặc dù không rõ ràng, đã mang lại một số thay đổi trong quá trình phát triển:

Số doanh nghiệp công nghiệp công tăng từ 1913 năm 1976 lên 2627 năm 1980 và 3220 năm 1985.
Năm 1976 - 1978 công nghiệp phát triển khá. Năm 1978 so với năm 1976 tăng 118,2%.
Tuy nhiên, do chúng ta chưa có đủ điều kiện để làm việc này (viện trợ nước ngoài giảm đột ngột, điều hành nền kinh tế còn nặng nề quan liêu, bao cấp, nhiều công trình nhà nước xây dựng). công nghiệp trung tâm, nhiều mục tiêu không đạt được,…) nên luôn có biểu hiện của tư duy nóng vội trong xác định bước đi, sai lầm trong lựa chọn ưu tiên giữa nông nghiệp và công nghiệp. Hậu quả là giai đoạn 1976 - 1980, nền kinh tế lâm vào khủng hoảng, suy thoái, cơ cấu kinh tế mất cân đối nghiêm trọng.
Đại hội Đảng lần thứ V (3-1982) xác định trong giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ ở nước ta, lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu, ra sức phát triển công nghiệp hàng tiêu dùng; việc xây dựng và phát triển công nghiệp nặng trong thời kỳ này cần thực hiện cầm chừng, nhằm phục vụ có hiệu quả, thiết thực cho nông nghiệp và công nghiệp nhẹ. Đại hội V coi đó là nội dung chủ yếu của công nghiệp hóa trước mắt. Đây là giai đoạn điều chỉnh rất đúng đắn, phù hợp với thực tế Việt Nam. Nhờ đó, nền kinh tế đất nước giai đoạn này tăng trưởng khá hơn 5 năm trước đó. Bán lẻ:

Tốc độ tăng trưởng kinh tế 1981: 2.385: 5,7%

Tốc độ tăng trưởng công nghiệp 1981: 9,5%

Tốc độ tăng trưởng nông nghiệp 1981: 5.385: 3%

Năm 1985, công nghiệp nhóm A chiếm 32,7%, công nghiệp nhẹ 67,3%, thủ công nghiệp 43,5%, công nghiệp địa phương 66%, công nghiệp quốc doanh và công tư hợp doanh 56,5%.
Tỷ trọng công nghiệp tăng từ 20,2%/1980 lên 30%/1985.
Nhập khẩu lương thực đã giảm đáng kể so với 5 năm trước (từ 5,6 triệu tấn thời kỳ 1976-1980 xuống còn 1 triệu tấn thời kỳ 1981-1985).
Tuy nhiên, trên thực tế, chính sách này không có nhiều thay đổi so với trước đây. Mặc dù xác định nông nghiệp là mặt trận chính nhưng Đại hội vẫn xác định “Xây dựng cơ cấu công nông nghiệp hiện đại, lấy làm nòng cốt, hệ thống công nghiệp nặng tương đối phát triển”. Sự điều chỉnh thiếu quyết đoán này đã không đưa kinh tế Việt Nam tiến xa mà ngược lại, còn gặp nhiều khó khăn và bất cập mới, tình hình kinh tế - xã hội và đời sống nhân dân sau 5 năm không có bước tiến triển bất ổn mà còn rơi vào khủng hoảng trầm trọng.
b. Những nét chính về công nghiệp hóa thời kỳ trước đổi mới

Nhìn chung, trong thời kỳ 1960 - 1985, chúng ta đã và đang đạt được CNH kiểu cũ với những đặc điểm cơ bản sau:

- Công nghiệp hóa theo mô hình nền kinh tế khép kín, hướng nội, thúc đẩy phát triển công nghiệp nặng.
- Chủ yếu dựa vào lợi thế về lao động, tài nguyên đất đai và viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa, trụ cột của công nghiệp hóa là nhà nước và doanh nghiệp nhà nước; Việc phân bổ nguồn lực cho công nghiệp hóa được thực hiện chủ yếu thông qua cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp trong nền kinh tế thị trường.
- Nóng vội, giản đơn, chủ quan, duy ý chí, ham làm nhanh, làm lớn, không quan tâm đến hiệu quả kinh tế - xã hội.

2. Kết quả, ý nghĩa, hạn chế và nguyên nhân

a. Kết quả thực hiện chính sách và ý nghĩa của nó

Công nghiệp hóa thời kỳ trước đổi mới diễn ra trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung, điều kiện vật chất cần thiết cho công nghiệp hóa rất hạn chế và trong điều kiện chiến tranh phá hoại. Mặc dù vậy, quá trình công nghiệp hóa vẫn đạt được những kết quả đáng kể.
So với năm 1955, số đại đội đã tăng lên 16,5 lần. Nhiều vùng công nghiệp lớn được hình thành, nhiều cơ sở đầu tiên của các ngành công nghiệp nặng quan trọng như điện, than, cơ khí, luyện kim, hóa chất được xây dựng.
Đã có hàng chục trường đại học, cao đẳng, dạy nghề và chuyên nghiệp, đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật khoảng 430.000 người, tăng gấp 19 lần so với năm 1960, khi ngành hóa chất ra đời.
Trong điều kiện xuất phát điểm thấp, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề thì những kết quả đạt được trên đây là rất quan trọng - tạo cơ sở ban đầu để nước ta phát triển nhanh hơn trong giai đoạn tiếp theo.
b) Hạn chế và nguyên nhân

- Hạn chế: Bên cạnh những kết quả đạt được, công nghiệp hóa thời kỳ trước đổi mới vẫn còn nhiều hạn chế. Các cài đặt kỹ thuật là rất cũ. Các ngành trọng điểm còn nhỏ bé, chưa được xây dựng đồng bộ, chưa tạo thành nền tảng vững chắc cho nền kinh tế quốc dân.
Lực lượng sản xuất nông nghiệp mới bắt đầu phát triển, nông nghiệp chưa thoả mãn nhu cầu lương thực, thực phẩm cho xã hội. Đất nước vẫn trong tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, kém phát triển và khủng hoảng kinh tế - xã hội.
Những hạn chế trên xuất phát từ các nguyên nhân sau:

Về khách quan, chúng ta công nghiệp hóa từ một nền kinh tế lạc hậu, nghèo nàn và trong điều kiện chiến tranh kéo dài, vừa bị thiệt hại nặng nề, vừa không tập trung được nguồn lực và sức lực cho công nghiệp hóa. .
Về chủ quan, chúng ta mắc sai lầm nghiêm trọng trong việc xác định mục tiêu, mốc thời gian về cơ sở vật chất kỹ thuật, bố trí cơ cấu sản xuất, cơ cấu đầu tư, v.v.

II. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong thời kỳ đổi mới

1. Quá trình đổi mới tư duy về công nghiệp hóa.

MỘT. Đại hội Đảng lần thứ VI phê phán những nhận thức sai lầm và đường lối công nghiệp hóa giai đoạn 1960-1986

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (12-1986) với tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói đúng sự thật” đã nghiêm khắc chỉ ra những nhận thức sai lầm và CNH, HĐH thời kỳ 1960 - 1985, mà trực tiếp là 10 năm sau. 1975 đến 1985:

Chúng ta đã sai lầm trong việc xác định mục tiêu, bước đi về xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật, cải tạo xã hội chủ nghĩa và quản lý kinh tế... Do chỉ đạo chủ quan, nóng vội, muốn bỏ qua bước đi cần thiết, chúng ta đã chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hóa mà chưa có đủ các biện pháp cần thiết. tài nguyên. mặt khác, chậm đổi mới cơ chế quản lý kinh tế. Trong bố trí cơ cấu kinh tế, trước hết là cơ cấu sản xuất và đầu tư, nhìn chung chỉ xuất phát từ mong muốn đi nhanh, chưa kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu giữa công nghiệp và nông nghiệp trong một cơ cấu hợp lý. . Kết quả là đầu tư nhiều nhưng hiệu quả thấp.
Không thực hiện nghiêm túc các nghị quyết của Đại hội V như: Nông nghiệp chưa thực sự được coi là tuyến đầu, công nghiệp nặng chưa phục vụ kịp thời cho nông nghiệp và công nghiệp nhẹ.
b. Quá trình đổi mới tư duy về công nghiệp hóa từ Đại hội VI đến

đại hội thành phố

Chỉ ra những sai sót, khuyết điểm, Đại hội VI đã cụ thể hóa nội dung chủ yếu của công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa giai đoạn đầu là thực hiện 3 chương trình lương thực, thực phẩm; hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu trong những năm còn lại của giai đoạn đầu của quá trình chuyển đổi. Ba chương trình này được liên kết chặt chẽ với nhau. Việc phát triển lương thực, thực phẩm và hàng tiêu dùng nhằm bảo đảm nhu cầu cơ bản của đời sống nhân dân sau hàng chục năm chiến tranh ác liệt và trong điều kiện nền kinh tế còn thiếu hàng hóa trầm trọng, góp phần ổn định kinh tế - xã hội; Việc phát triển các mặt hàng xuất khẩu là nhân tố quyết định khuyến khích sản xuất và đầu tư trong nước, tạo nguồn thu ngoại tệ để nhập khẩu máy móc, thiết bị sản xuất. Việc xác định thứ tự ưu tiên này đã giúp phát huy nội lực và tận dụng ngoại lực để phát triển kinh tế - xã hội.
=> Thực chất đó là sự thay đổi trong việc lựa chọn mô hình chiến lược CNH, chuyển từ mô hình cũ hướng nội (thay thế nhập khẩu) sang mô hình hỗn hợp (hướng về xuất khẩu và thay thế nhập khẩu). thành công rực rỡ tại các nước Châu Á lúc bấy giờ.
Như vậy, đường lối công nghiệp hóa của Đại hội VI đã:
- Đưa ra thứ tự ưu tiên mới: nông nghiệp - công nghiệp hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu - công nghiệp nặng. - Tạo sự chuyển biến rõ rệt cả về nhận thức và tổ chức thực hiện CNH đất nước. Đây là sự thay đổi theo hướng chiến lược của CNH là:

Từ cơ chế hoạch định chiến lược sang cơ chế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước.
Cơ chế đóng với cơ chế kinh tế mở.
Từ việc xây dựng cơ cấu kinh tế hoàn chỉnh, tự cung tự cấp ngay từ đầu sang cơ cấu kinh tế bổ sung và liên kết.
Mục tiêu “ưu tiên phát triển công nghiệp nặng” chuyển sang “chú trọng nông nghiệp, công nghiệp hàng tiêu dùng và xuất khẩu”. Từ đó dẫn đến sự đổi mới trong cơ cấu đầu tư: “Đầu tư có trọng điểm và tập trung vào những mục tiêu và các ngành quan trọng, trước hết đầu tư cho sản xuất nông nghiệp, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu, cho chế biến nông sản và một số ngành công nghiệp nặng trực tiếp phục vụ 3 chương trình kinh tế lớn”

Phát huy nguồn lực của nhiều thành phần kinh tế.
Tiếp theo, Đại hội VII (năm 1991) Đảng ta tiếp tục có những nhận thức mới, ngày càng toàn diện và sâu sắc hơn về công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa. Đại hội đã xác định rõ vai trò “mặt trận hàng đầu” của nông nghiệp, và trên thực tế đầu tư cho nông nghiệp từ ngân sách đã tăng lên. Đại hội đề cập đến lĩnh vực Dịch vụ kinh tế - kỹ thuật trong việc đáp ứng yêu cầu sản xuất, đời sống và hợp tác quốc tế; đưa ra chiến lược phát triển kinh tế vùng phù hợp với chiến lược chung cả nước. Thực hiện đường lối công nghiệp hóa của Đại hội VII, nền kinh tế đã có những bước phát triển cao hơn, có chất lượng hơn, đi vào thực chất hơn so với nhiều năm trước:

Tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 1991: 5,895: 9,5%

Tương ứng công nghiệp tăng: 1991: 5,3 95: 15,5%

Nông nghiệp tăng 1991: 2,295: 4,8%

Xuất khẩu tăng 1991: -13,295: 34,4%

Lạm phát được kiềm chế ở mức thấp 1991: 6795: 12,7%

Cơ cấu kinh tế: 1991: 40,5 – 23,8 – 35,7(%)

1995: 27,2 – 28,8 – 44 (%)

Vốn đầu tư cho công nghiệp giai đoạn 1991 – 1995 chiếm 38,4% tổng đầu tư xã hội (20,8 tỷ USD)

Đại hội Đảng VIII (năm 1996) nhìn lại đất nước sau 10 năm đổi mới đã nhận định: nước ta đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kỳ quá độ là chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp hóa đã cơ bản hoàn thành cho phép chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa được thiết kế như sau:

CNH, HĐH là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng lao động một cách không xâm lấn. dựa trên cơ sở phát triển công nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
Đại hội VIII đã điều chỉnh đường lối công nghiệp hóa theo hướng lấy nông nghiệp làm khâu đột phá, coi nông nghiệp kết hợp với công nghiệp chế biến là mặt trận chủ đạo. Tiếp tục thực hiện rộng rãi chính sách mở cửa, phát triển kinh tế nhiều thành phần, nâng cao tính tự chủ trong sản xuất kinh doanh. Gắn công nghiệp hóa với hiện đại hóa, lấy khoa học - công nghệ là động lực, lấy nguồn nhân lực là nhân tố trung tâm của công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Xác định nội dung cụ thể của công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong những năm trước mắt (1996 - 2000) là “đặc biệt coi trọng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn…”. Kết quả là:

Tốc độ tăng trưởng kinh tế 1996: 9,3 00: 6,75%

Tốc độ tăng trưởng công nghiệp 1996: 14,5 00: 10,1 %

Tốc độ tăng trưởng nông nghiệp 1996: 4,4 00: 4%

Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu 1996: 33,2 00: 24%

Cơ cấu kinh tế 1996: 27,8 – 29,7 – 42,5 (%)

2000: 24,3 – 36,6 – 39,1 (%)

Đại hội IX (năm 2001) và Đại hội X (năm 2006) Đảng ta tiếp tục bổ sung và nhấn mạnh một số điểm mới trong tư duy về công nghiệp hóa:

- Con đường công nghiệp hóa ở nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian so với các nước đi trước. Đây là yêu cầu cấp thiết của nước ta nhằm sớm thu hẹp khoảng cách về trình độ phát triển so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Một nước đi sau có điều kiện tận dụng những kinh nghiệm kỹ thuật, công nghệ và thành quả của các nước đi trước, tận dụng xu thế của thời đại qua hội nhập quốc tế để rút ngăn thời gian.
- Tuy nhiên, tiến hành công nghiệp hóa theo lối rút ngắn so với các nước đi trước, chúng ta cần thực hiện các yêu cầu như: Phát triển kinh tế và công nghệ phải vừa có những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt; phát huy những lợi thế của đất nước, gắn công nghiệp hóa với hiện đại hóa, từng bước phát triển kinh tế tri thức; phát huy nguồn lực trí tuệ và tinh thần của con người Việt Nam, đặc biệt coi trọng phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, xem đây là nền tảng và động lực cho CNH, HDH.
- Hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta là phải phát triển nhanh và có hiệu quả các sản phẩm, các ngành, các lĩnh vực có lợi thế, đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu. - Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước phải bảo đảm xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, tức là công nghiệp hóa trong một nền kinh tế mở, hướng ra bên ngoài.
- Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn gắn với nâng cao năng suất và chất lượng nông sản.
- Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải tính đến yêu cầu phát triển bền vững trong tương lai.

2. Mục tiêu và triển vọng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

MỘT. Mục tiêu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa

Mục tiêu lâu dài của công nghiệp hóa, hiện đại hóa là đưa nước ta thành nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiên tiến, trình độ phát triển cao của lực lượng sản xuất, mức sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững mạnh, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Để đạt được mục tiêu trên, mỗi thời kỳ phải đạt được những mục tiêu cụ thể. Đại hội X xác định mục tiêu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa là đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức nhằm nhanh chóng đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; tạo nền tảng để đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
b. Triển vọng công nghiệp hóa, hiện đại hóa

- Thứ nhất, công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa và công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức.
- Thứ hai, công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế.
- Thứ ba, lấy phát huy nguồn nhân lực là yếu tố cơ bản của phát triển nhanh và bền vững.
Thứ tư, coi phát triển khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Năm là, phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường tự nhiên, bảo tồn đa dạng sinh học.

3. Nội dung và định hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức

MỘT. Nội dung

Đại hội Đảng lần thứ X đã chỉ rõ: “Chúng ta phải tận dụng những cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của nước ta để rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với phát triển nền kinh tế tri thức. Phải coi kinh tế tri thức là một bộ phận quan trọng của nền kinh tế, của công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Những điều cơ bản của quá trình này là:

- Phát triển mạnh các ngành, sản phẩm kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào tri thức, kết hợp sử dụng vốn trí tuệ của dân tộc Việt Nam với tri thức mới nhất của nhân loại. - Coi trọng cả số lượng và chất lượng tăng trưởng kinh tế trong từng giai đoạn phát triển của đất nước, của từng vùng, từng địa phương, từng dự án kinh tế - xã hội.
- Xây dựng cơ cấu kinh tế theo ngành, lĩnh vực và lãnh thổ hợp lý, hiện đại.
- Giảm chi phí trung gian, nâng cao năng suất lao động của các ngành, nhất là các ngành, lĩnh vực có tính cạnh tranh cao.
b. Định hướng phát triển các ngành, vùng kinh tế trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức

- Thứ nhất, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, giải quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân. Về công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp.
Vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân là vấn đề công nghiệp hóa lớn của tất cả các nước công nghiệp hóa trên thế giới, bởi vì công nghiệp hóa là quá trình thu hẹp khu vực nông nghiệp, nông thôn và tăng khu vực công nghiệp, xây dựng và dịch vụ đô thị. Nông nghiệp là nguồn cung cấp lương thực, nguyên liệu và lao động cho công nghiệp và các thành phố, là thị trường rộng lớn cho công nghiệp và dịch vụ. Khu vực nông thôn chiếm phần lớn dân số khi bắt đầu công nghiệp hóa. Vì vậy, quan tâm đến nông nghiệp, nông dân, nông thôn là vấn đề quan trọng hàng đầu trong quá trình công nghiệp hóa. Ở nước ta, trong những năm gần đây, vấn đề CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn được đặt ở vị trí quan trọng. Trong những năm tới, trục phát triển của quá trình này là:

Chuyển dịch mạnh cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng tạo ra giá trị gia tăng cao hơn, gắn với công nghiệp chế biến và thị trường; đẩy nhanh tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ sinh học trong sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh của các sản phẩm nông nghiệp cơ bản, phù hợp với đặc điểm của từng vùng, từng địa phương.
Tăng nhanh tỷ trọng giá trị sản phẩm và lao động của các ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng giá trị sản phẩm và lao động của khu vực nông nghiệp.
Về quy hoạch phát triển nông thôn:

Nhanh chóng xây dựng quy hoạch phát triển nông thôn và thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới. Xây dựng thôn, khu phố, thôn xóm có cuộc sống ấm no, văn minh, môi trường trong lành. Hình thành các khu dân cư đô thị với hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ như thủy lợi, giao thông, điện nước, cụm công nghiệp, trường học, trạm y tế, bưu điện, chợ...

Phát huy dân chủ ở nông thôn đi đôi với xây dựng môi trường sống văn hóa, nâng cao dân trí, bài trừ các tệ nạn xã hội, hủ tục, mê tín dị đoan, bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
Về việc làm và việc làm ở nông thôn:

Chú trọng đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho nông dân, trước hết ở những nơi sử dụng đất nông nghiệp để xây dựng các khu công nghiệp, dịch vụ, giao thông và khu đô thị mới. Định hướng lại cơ cấu lao động khu vực nông thôn theo hướng giảm nhanh tỷ trọng lao động làm trong nông nghiệp, tăng tỷ trọng lao động làm trong công nghiệp và dịch vụ. Tạo điều kiện để lao động nông thôn có việc làm trong và ngoài khu vực nông thôn, kể cả lao động nước ngoài.
Đầu tư nhiều hơn cho các chương trình giảm nghèo, nhất là vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Mục tiêu đề ra là phấn đấu đến năm 2010, tỷ trọng lao động nông, lâm nghiệp và ngư nghiệp giảm xuống dưới 50% trong tổng số lao động xã hội và nâng tỷ lệ có giờ làm việc ở khu vực nông thôn lên khoảng 85%.
Thứ hai, tăng trưởng nhanh hơn công nghiệp, xây dựng và dịch vụ.
Quy luật của công nghiệp hóa, hiện đại hóa là tỷ trọng nông nghiệp giảm dần, tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ tăng lên. Vì vậy, nước ta chủ trương phát triển công nghiệp, xây dựng và dịch vụ nhanh hơn.
- Đối với công nghiệp và xây dựng:

Khuyến khích phát triển công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp chế tạo, công nghiệp phần mềm và công nghiệp hỗ trợ có lợi thế cạnh tranh, tạo ra nhiều sản phẩm xuất khẩu, thu hút nhiều lao động; phát triển một số khu kinh tế mở, đặc khu kinh tế, nâng cao hiệu quả các khu công nghiệp, khu chế xuất. Khuyến khích và tạo điều kiện để các thành phần kinh tế tham gia phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu; sản xuất hiện đại những tư liệu sản xuất quan trọng; ưu tiên thu hút đầu tư của các tập đoàn kinh tế lớn của nước ngoài, các công ty lớn xuyên quốc gia.
Tích cực thu hút vốn trong và ngoài nước để đầu tư thực hiện các dự án lớn về khai thác dầu khí, lọc hóa dầu, luyện kim, cơ khí, hóa chất cơ bản, phân bón và vật liệu xây dựng. . Có chính sách hạn chế xuất khẩu tài nguyên thô. Thu hút chuyên gia cao cấp giỏi từ nước ngoài và cộng đồng người Việt Nam sinh sống ở nước ngoài.
Xây dựng đồng bộ hạ tầng kỹ thuật kinh tế - xã hội, nhất là sân bay quốc tế, cảng biển, đường cao tốc, đường ven biển, đường Đông Tây, mạng lưới cấp điện, hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội các đô thị lớn, hệ thống thủy lợi, cấp thoát nước. Phát triển công nghiệp năng lượng gắn với công nghệ tiết kiệm năng lượng. Tăng nhanh năng lực và hiện đại hóa bưu chính, viễn thông.
- Đối với dịch vụ:

Tạo bước đột phá trong các ngành dịch vụ, nhất là các ngành chất lượng cao, có tiềm năng và sức cạnh tranh cao bằng việc đưa tốc độ tăng trưởng của ngành dịch vụ cao hơn tốc độ tăng GDP. Tận dụng cơ hội hội nhập kinh tế quốc tế để tạo giai đoạn phát triển ngành “công nghiệp không khói” này. Tiếp tục phát triển và nâng cao chất lượng các ngành dịch vụ truyền thống như vận tải, thương mại, ngân hàng, bưu chính viễn thông và du lịch. Phát triển mạnh sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản và dịch vụ đời sống ở nông thôn.
Đổi mới sâu rộng cơ chế quản lý và phương thức cung ứng dịch vụ công. Nhà nước kiểm soát chặt chẽ tình trạng độc quyền và tạo môi trường pháp lý, môi trường thuận lợi để các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế tham gia và cạnh tranh bình đẳng trên thị trường dịch vụ.
Thứ ba, phát triển kinh tế vùng.
Cơ cấu kinh tế vùng là một trong những cơ cấu cơ bản của nền kinh tế quốc dân. Điều quan trọng là phải xác định đúng cơ cấu vùng, điều này giúp khai thác có hiệu quả lợi thế so sánh của từng vùng, tạo sự phát triển đồng đều giữa các vùng trong cả nước. Để phát triển mạnh kinh tế vùng trong những năm tới cần:

Có cơ chế, chính sách phù hợp để các vùng của đất nước cùng phát triển nhanh hơn trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh, hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý của từng vùng và liên vùng, đồng thời tạo sự liên kết giữa các vùng để kết nối các vùng theo trật tự mang lại hiệu quả to lớn, khắc phục tình trạng chia cắt, gần gũi theo địa giới hành chính.
Xây dựng ba vùng kinh tế trọng điểm Bắc, Trung, Nam trở thành những trung tâm công nghiệp lớn, công nghệ cao để các vùng này đóng góp ngày càng nhiều vào sự phát triển chung của đất nước. Trên cơ sở phát triển các vùng kinh tế trọng điểm, tạo động lực, tác động lan tỏa đến các vùng khác và hỗ trợ các vùng khó khăn, nhất là biên giới, hải đảo, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, Tây Bắc. . Có chính sách hỗ trợ thêm nguồn lực để phát triển vùng khó khăn. Bổ sung chính sách khuyến khích doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế và doanh nghiệp nước ngoài đầu tư, kinh doanh tại vùng khó khăn.
Bốn là, phát triển kinh tế biển.
Xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế biển toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm. Sớm đưa nước ta trở thành nước mạnh về kinh tế biển trong khu vực, kết hợp với bảo đảm quốc phòng - an ninh và hợp tác quốc tế.
Hoàn thiện quy hoạch và phát triển có hiệu quả hệ thống cảng biển, giao thông thủy, khai thác, chế biến dầu khí, khai thác, chế biến hải sản, phát triển du lịch biển đảo. Đẩy mạnh phát triển công nghiệp đóng tàu, đồng thời hình thành một số hành lang kinh tế ven biển.
Thứ năm, thay đổi cơ cấu lao động và cơ cấu công nghệ.
Để chuyển đổi cơ cấu lực lượng lao động, cơ cấu công nghệ trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức cần:

- Phát triển nguồn nhân lực, bảo đảm đến năm 2010 có nguồn nhân lực đồng bộ về cơ cấu và chất lượng cao, tỷ trọng lao động trong khu vực nông nghiệp dưới 50% dân số hoạt động xã hội.
- Phát triển khoa học và công nghệ phù hợp với xu thế phát triển nhanh chóng của cách mạng khoa học và công nghệ. Lựa chọn và bước ngay vào công nghệ hiện đại trong một số ngành, lĩnh vực then chốt. Chú trọng phát triển công nghệ cao để tạo đột phá, công nghệ sử dụng nhiều lao động để giải quyết việc làm. Đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ, tạo đột phá về năng suất, chất lượng, hiệu quả trong mọi ngành, lĩnh vực của nền kinh tế.
- Gắn kết chặt chẽ hoạt động khoa học và công nghệ với giáo dục và đào tạo để thực sự phát huy vai trò quốc sách hàng đầu, tạo động lực đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế tri thức. . Thực hiện chính sách trọng dụng nhân tài, các nhà khoa học đầu ngành, tổng công trình sư, máy trưởng, kỹ thuật viên có năng lực và công nhân kỹ thuật trình độ cao.
- Đổi mới sâu rộng hệ thống quản lý khoa học và công nghệ, cụ thể là hệ thống tài chính theo tính chất sáng tạo và rủi ro của hoạt động khoa học và công nghệ. Sáu là, bảo vệ và sử dụng có hiệu quả tài nguyên quốc gia, cải thiện môi trường tự nhiên.
Xuất phát từ yêu cầu phát triển bền vững đất nước trong quá trình CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức, vấn đề bảo vệ, sử dụng tài nguyên và cải thiện môi trường tự nhiên đã được xác định.
- Tăng cường quản lý tài nguyên quốc gia, nhất là tài nguyên đất, nước, khoáng sản, tài nguyên rừng. Ngăn chặn các hành vi hủy hoại, ô nhiễm môi trường, khắc phục suy thoái môi trường lưu vực sông, khu đô thị, khu công nghiệp, làng nghề, nơi tập trung đông dân cư và có nhiều hoạt động kinh tế. Quan tâm đầu tư cho lĩnh vực môi trường, cụ thể là hoạt động thu gom, tái chế và xử lý chất thải, phát triển và ứng dụng công nghệ sạch, công nghệ ít gây ô nhiễm môi trường. Hoàn thiện pháp luật, tăng cường quản lý nhà nước về bảo vệ và cải thiện môi trường tự nhiên. Áp dụng nguyên tắc người gây ô nhiễm phải xử lý ô nhiễm hoặc trả tiền cho việc xử lý ô nhiễm.
- Từng bước hiện đại hóa công tác nghiên cứu, dự báo khí tượng - thủy văn, chủ động phòng chống thiên tai, tìm kiếm cứu nạn.
- Quản lý tốt mối quan hệ giữa tăng dân số, phát triển kinh tế, đô thị hóa với bảo vệ môi trường, bảo đảm phát triển bền vững.
- Mở rộng hợp tác quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ môi trường và quản lý tài nguyên, trong đó chú trọng quản lý, khai thác, sử dụng tài nguyên nước.

4. Kết quả, ý nghĩa, hạn chế và nguyên nhân

MỘT. Kết quả của việc thực hiện đường dẫn và ý nghĩa của nó

Sau hơn 20 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, trong đó có thành tựu nổi bật là công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Thứ nhất, cơ sở vật chất - kỹ thuật của đất nước được tăng cường đáng kể, tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế được củng cố. Từ một nền kinh tế nông nghiệp chủ yếu lạc hậu, kết cấu hạ tầng yếu kém, đến nay cả nước có hơn 100 khu công nghiệp, khu chế xuất tập trung, nhiều khu hoạt động hiệu quả, tỷ lệ công nghiệp chế tạo, cơ khí chế tạo và nội địa hóa sản phẩm ngày càng cao. . Các ngành sản xuất vật liệu như luyện kim, cơ khí, vật liệu xây dựng, hóa chất cơ bản, khai khoáng, hóa dầu có bước phát triển mạnh mẽ. Một số sản phẩm công nghiệp đã cạnh tranh được trên thị trường trong và ngoài nước. Ngành xây dựng tăng trưởng nhanh, bình quân thời kỳ 2001 - 2005 đạt 16,7%/năm, năng lực xây dựng tăng nhanh và có bước tiến rõ rệt theo hướng hiện đại. Công tác xây dựng đô thị, nhà ở đạt nhiều kết quả. Hàng năm có hàng triệu m2 nhà ở được đưa vào sử dụng (bình quân giai đoạn 2001-2005 mỗi năm tăng thêm 20 triệu m2 nhà ở). Công nghiệp nông thôn, miền núi có tốc độ tăng trưởng cao hơn mức bình quân chung của cả nước. Nhiều công trình hạ tầng quan trọng được đầu tư xây dựng như sân bay, cảng biển, cầu đường, trạm điện, bưu chính viễn thông…. theo hướng hiện đại hóa.
Thứ hai, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đạt được những kết quả quan trọng: tỷ trọng công nghiệp và xây dựng tăng, tỷ trọng nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm (năm 2001). -2005, tỷ trọng công nghiệp và xây dựng tăng từ 36,7% năm 2000 lên 41% năm 2005, còn tỷ trọng nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng từ 24,5% năm 2000 lên 20,9% năm 2005). Trong các ngành kinh tế đã có sự chuyển dịch tích cực về cơ cấu sản xuất, cơ cấu công nghệ theo hướng tiến bộ, hiệu quả, gắn sản xuất với thị trường. Cơ cấu kinh tế vùng được điều chỉnh theo hướng phát huy lợi thế so sánh của từng vùng. Các vùng kinh tế trọng điểm phát triển khá nhanh, đóng góp quan trọng vào tăng trưởng và là đầu tàu của nền kinh tế.
Cơ cấu các ngành kinh tế tiếp tục phát triển theo hướng phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tế, đan xen giữa nhiều hình thức sở hữu.
Cơ cấu lực lượng lao động có sự chuyển dịch tích cực gắn với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Từ năm 2000 đến 2005, tỷ trọng lao động khu vực công nghiệp và xây dựng tăng từ 12,1% lên 17,9%; dịch vụ tăng từ 19,7% lên 25,3%; nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm từ 68,2% xuống 56,8%; lao động qua đào tạo tăng từ 20% lên 25%. Thứ ba, thành tựu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã góp phần quan trọng đưa nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng khá cao, đạt bình quân hơn 7,5%/năm từ năm 2000 đến nay. Điều này đã góp phần quan trọng vào công cuộc xóa đói giảm nghèo. Thu nhập bình quân đầu người hàng năm tăng khá. Năm 2005 đạt 640 USD/người, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân tiếp tục được cải thiện.
Thành tích trên là rất đáng kể; Đây là cơ sở để phấn đấu thực hiện mục tiêu: nhanh chóng đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020 do Đại hội Đảng lần thứ X đề ra, trở thành hiện thực. b. Hạn chế và nguyên nhân

Bên cạnh những thành tựu to lớn đã đạt được, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa thời gian qua ở nước ta vẫn còn nhiều hạn chế, đó là:

- Tốc độ tăng trưởng kinh tế còn thấp so với khả năng và thấp hơn nhiều nước ở giai đoạn đầu của thời kỳ công nghiệp hóa. Tăng trưởng kinh tế chủ yếu theo quy mô, trong các ngành sử dụng nhiều công nghệ thấp, thâm dụng vật chất, thâm dụng tài nguyên, thâm dụng vốn, thâm dụng lao động. Năng suất lao động còn thấp so với nhiều nước trong khu vực.
- Các nguồn lực của đất nước chưa được sử dụng có hiệu quả, tài nguyên thiên nhiên, đất đai, vốn của nhà nước còn bị lãng phí, thất thoát nghiêm trọng. Nhiều tài nguyên của nhân dân chưa được khai thác.
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chậm. Trong công nghiệp, các sản phẩm hàm lượng tri thức rất hiếm. Trong nông nghiệp, sản xuất chưa gắn chặt với thị trường. Nội dung CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn còn thiếu tính cụ thể. Chất lượng nguồn nhân lực của đất nước còn thấp. Tỷ lệ lao động qua đào tạo còn thấp, lao động thiếu việc làm và thất nghiệp còn nhiều.
Các vùng kinh tế trọng điểm chưa khai thác hết thế mạnh để nhanh chóng đi vào cơ cấu kinh tế hiện đại. Kinh tế vùng chưa liên kết chặt chẽ, hiệu quả thấp và chưa được quan tâm xứng đáng.
Cơ cấu các ngành kinh tế phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, chưa tạo môi trường hợp tác, cạnh tranh bình đẳng và năng lực phát triển của các thành phần kinh tế. Cơ cấu đầu tư chưa hợp lý. Các công trình phát triển có chất lượng thấp, quản lý kém và chưa phù hợp với cơ chế thị trường.
- Kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội chưa đáp ứng nhu cầu phát triển. Nhìn chung, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội mặc dù đã được nỗ lực đầu tư nhưng vẫn còn lạc hậu, thiếu đồng bộ và chưa đáp ứng nhu cầu, làm hạn chế sự phát triển kinh tế - xã hội.

Những hạn chế trên do nhiều nguyên nhân nhưng chủ yếu là các nguyên nhân chủ quan như:

- Nhiều chính sách, giải pháp chưa đủ mạnh để huy động và sử dụng tốt nhất các nguồn lực cả bên trong và bên ngoài cho phát triển kinh tế - xã hội.
- Cải cách hành chính còn chậm và kém hiệu quả, tổ chức bộ máy và cán bộ chậm đổi mới, chưa đáp ứng yêu cầu. - Quản lý và tổ chức kém.
Ngoài những nguyên nhân chung nêu trên còn có những nguyên nhân cụ thể, trực tiếp như: Chất lượng công tác quy hoạch kém, nhiều bất hợp lý dẫn đến quy hoạch “treo” diễn ra khá phổ biến, gây lãng phí nghiêm trọng; Cơ cấu đầu tư không hợp lý dẫn đến đầu tư kém hiệu quả, quản lý yếu kém dẫn đến lãng phí, thất thoát, tham nhũng nghiêm trọng.

Nội dung bài viết:

    Hãy để lại thông tin để được tư vấn

    comment-blank-solid Bình luận

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo