Triết học Mác xuất hiện trong bối cảnh nền văn minh công nghiệp đã hình thành ở phương Tây vào nửa đầu thế kỷ XIX, nó là sự kết tinh tinh hoa tư tưởng của thời đại. Một trong những quan điểm nền tảng tạo nên sức sống của triết học Mác chính là quan điểm thực tiễn, trong đó có nội dung thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý. Vậy ở bài viết này hãy cùng Luật ACC đi tìm hiểu, chứng minh quan điểm nêu trên nhé!

1. Thực tiễn là gì?
“Thực tiễn” một cụm từ mang ý nghĩa trừu tượng và hầu như được ít người hiểu hết về khái niệm này. Thực tiễn được xem là một trong những phạm trù nền tảng và cơ bản của triết học Mác- Lênin nói chúng và lý luận nhận thức Mácxít nói riêng.
Chủ nghĩa duy tâm hiểu thực tiễn là hoạt động tinh thần sáng tạo ra thế giới của con người, chứ không xem nó là hoạt động vật chất, là hoạt động lịch sử xã hội.
Chủ nghĩa duy vật trước Mác lại xem thực tiễn là một hành động vật chất của con người nhưng lại xem đó là hoạt động con buôn, đê tiện, bẩn thỉu; không có vai trò đối với nhận thức của con người.
Kế thừa những yếu tố hợp lý và phát triển hơn những yếu tố sai lầm trong những quan niệm về thực tiễn của các nhà triết học trước đó, C.Mác và Ph.Ăngghen đã sáng tạo để đưa ra quan niệm đúng đắn, khoa học hơn về thực tiễn như sau:
Thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất có mục đích, mang tính lịch sử - xã hội của con người nhằm cải biến tự nhiên và xã hội.
Thực tiễn biểu hiện đa dạng với nhiều hình thức ngày càng phong phú, tuy nhiên có ba hình thức cơ bản ta cần hiểu rõ: là hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động chính trị xã hội và hoạt động thực nghiệm khoa học. Cụ thể như sau:
- Hoạt động sản xuất vật chất là hình thức hoạt động cơ bản, đầu tiên của thực tiễn. Đây chính là hoạt động mà trong đó con người sử dụng những công cụ lao động tác động vào giới tự nhiên để tạo ra của cải và các điều kiện thiết yếu nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển của mình và xã hội. Ví dụ: Hoạt động cấy lúa của người nông dân
- Hoạt động chính trị xã hội là hoạt động của các tổ chức cộng đồng người khác nhau trong xã hội nhằm cải biến những mối quan hệ xã hội để thúc đẩy xã hội phát triển. Ví dụ: Hoạt động bầu cử Đại biểu Quốc hội.
- Thực nghiệm khoa học là một hình thức đặc biệt của thực tiễn. Đây là hoạt động được tiến hành trong những điều kiện do con người tạo ra gần giống, giống hoặc lặp lại những trạng thái của tự nhiên và xã hội nhằm xác định các quy luật biến đổi và phát triển của đối tượng nghiên cứu. Dạng hoạt động thực tiễn này ngày càng có vai trò quan trọng trong sự phát triển của xã hội, đặc biệt là trong thời kỳ cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại. Ví dụ: Hoạt động nghiên cứu vắc xin COVID- 19.
Mỗi hình thức hoạt động cơ bản của thực tiễn có một chức năng quan trọng khác nhau, không thể thay thế được cho nhau song giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau. Từ đó, giúp thực tiễn vận động, phát triển không ngừng và ngày càng có vai trò quan trọng đối với nhận thức.
2. Chân lý là gì?
Chân lý thuộc về vấn đề nhận thức bởi vì nhiệm vụ của nhận thức là phải đạt đến chân lý, nghĩa là đạt đến tri thức có nội dung phù hợp với hiện thực khách quan; nhưng không phải là sự nhận thức nói chung, mà là sự nhận thức đúng về hiện thực khách quan. Chân lý cũng không phải bản thân hiện thực khách quan nói chung, mà chỉ là hiện thực khách quan đã được phản ánh đúng bởi nhận thức của con người. Không thể có chân lý chủ quan, hoặc chân lý tồn tại tự nó một cách trừu tượng thuần túy ở trong hiện thực khách quan như quan điểm của triết học duy tâm đã thừa nhận. Hoặc có quan điểm không đúng cho rằng chân lý thuộc về số đông, tức là tư tưởng đó được nhiều người thừa nhận hoặc nó thuộc về những người có quyền lực, người giàu có...
Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng: chân lý là những tri thức phù hợp với hiện thực khách quan và được thực tiễn kiểm nghiệm. Chân lý bao giờ cũng là chân lý khách quan tức là những tri thức mà nội dung của nó không phụ thuộc vào con người. Chân lý còn có tính tuyệt đối và tính tương đối, tính cụ thể. Chân lý còn là một quá trình vì nhận thức của con người là một quá trình
3. Chứng minh thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý?
Thực tiễn và chân lý chính là những mặt đối lập với nhau, tuy nhiên nó lại tồn tại song song trong cuộc sống của chúng ta. Chân lý chính là lý thuyết còn thực tiễn chính là thực hành.
– Thực tiễn là tiêu chuẩn duy nhất của chân lý:
Thực tiễn là hoạt động vật chất có tính tất yếu khách quan, diễn ra độc lập đối với nhận thức, nó luôn vận động và phát triển trong lịch sử, nhờ đó nó thúc đẩy nhận thức cùng vận động và phát triển. Mọi sự biến đổi của nhận thức thường xuyên chịu sự kiểm nghiệm trực tiếp của thực tiễn.
Thực tiễn có vai trò làm tiêu chuẩn, thước đo giá trị của những tri thức đã đạt được trong nhận thức, nó còn bổ sung, chỉnh sửa, điều chỉnh, sửa chữa, phát triển và hoàn thiện nhận thức.
Nhờ có thực tiễn kiểm nghiệm mà chúng ta xác định được đâu là cái hợp quy luật, đâu là cái đúng, đâu là sai, cái nào nên làm…
Thực tiễn là điểm xuất phát của nhận thức, là yếu tố đóng vai trò quyết định đối với sự hình thành và phát triển của nhận thức, cũng là nơi nhận thức luôn hướng đến để kiểm nghiệm tính đúng đắn.
Con người phải luôn quán triệt quan điểm thực tiễn, quan điểm này yêu cầu nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn. Nếu xa rời thực tiễn sẽ dẫn đến sai lầm của bệnh chủ quan, duy ý chí, giáo điều, máy móc, quan liêu.
Những tri thức phù hợp với hiện thực khách quan và được thực tiễn kiểm nghiệm chính là những tri thức đúng.
– Chân lý có tính cụ thể, có đặc tính gắn liền và phù hợp giữa nội dung phản ánh với một đối tượng nhất định cùng các điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể.
Mỗi tri thức đúng bao giờ cũng có một nội dung nhất định, nội dung đó luôn gắn liền với đối tượng xác định nên chân lý nào cũng gắn liền với những điều kiện lịch sử cụ thể.
Việc nắm vững những nguyên tắc về tính cụ thể của chân lý có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng trong hoạt động nhận thức cũng như hoạt động thực tiễn.
Nhận thức là những tri thức về bản chất quy luật của hiện thực, của thực tiễn mà thực tiễn là cơ sở, động lực và mục đích của nhận thức.
Xem thêm bài viết: Vì sao nói thực tiễn là cơ sở của nhận thức
4. Ví dụ về thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý
Một số ví dụ để chứng minh thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý có thể kể đến là: Trái đất quay quanh mặt trời; Không có gì quý hơn độc lậ tự do; Nhà bác gọc Galile phát minh ra định luật về sức cản của không khí
Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý vì chỉ có đem những tri thức đã thu nhận được qua nhận thức đối chiếu với thực tiễn để kiểm tra, kiểm nghiệm mới khẳng định được tính đúng đắn của nó.
Có thể khẳng định Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý. Chỉ có thực tiễn mới là tiêu chuẩn khách quan duy nhất để khẳng định chân lý, bác bỏ sai lầm. Bản thân thực tiễn không đứng im mà luôn luôn thay đổi, do đó, khi thực tiễn thay đổi thì tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý cũng phải thay đổi theo cho phù hợp
Như vậy trên đây là toàn bộ thông tin về Chứng minh thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý? Ví dụ? do Công ty Luật ACC soạn thảo muốn gửi đến quý khách mang tính chất tham khảo. Hy vọng rằng những thông tin mà chúng tôi cung cấp tại bài viết sẽ giúp ích cho quý khách trong quá trình tìm hiểu các vấn đề về thực tiễn và chân lý.
Nội dung bài viết:
Bình luận