Trong quá trình chứng minh, làm rõ vụ án cần thu thập dấu vết tội phạm làm cơ sở phục hồi toàn bộ diễn biến vụ án để từ đó có nhận thức đúng đắn khách quan về tội phạm.
1. Khái niệm chứng cứ trong tố tụng hình sự
Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ có thể ra quyết định, bản án trên cơ sở chứng cứ chứng minh tội phạm, người thực hiện tội phạm và các tình tiết có liên quan. Tội phạm đã thực hiện luôn để lại dấu vết bên ngoài thế giới khách quan nên khi tiến hành thu thập chứng cứ để làm sáng tỏ vụ án phải thu thập dấu vết tội phạm để lại làm cơ sở phục hồi toàn bộ diễn biến của vụ án, dẫn đến nhận thức đúng đắn, khách quan về tội phạm.
Bộ luật tố tụng hình sự 2015 định nghĩa chứng cứ cụ thể theo Điều 86 như sau:
“Chứng cứ là vật có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định, được dùng làm căn cứ để xác định có hay không có tội phạm, người thực hiện tội phạm và những tình tiết khác có ý nghĩa quan trọng trong việc giải quyết vụ án.”
Như vậy, chứng cứ là phương thức duy nhất để chứng minh tội phạm, làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án, giúp những người là chủ thể của hoạt động tố tụng hình sự giải quyết vụ án một cách khách quan, công bằng, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.
2. Thuộc tính bằng chứng
Chứng cứ là sự vật, hiện tượng có thật, tổng thể nên phải xem xét từng thuộc tính của chứng cứ so với các thuộc tính khác và trong mối liên hệ tổng thể.
2.1 Tính khách quan của bằng chứng
Tài liệu là chứng cứ dùng để chứng minh tội phạm phải có thật và tồn tại khách quan, không phụ thuộc vào ý thức của con người. Sự vật, hiện tượng chứa đựng dấu vết của tội phạm luôn tồn tại khách quan và có thể được lưu giữ dưới dạng vật chất hoặc được ghi vào trí nhớ của con người, chúng là dấu vết của tội phạm để lại bên ngoài thế giới khách quan. Sản phẩm của suy đoán chủ quan không thể dùng làm chứng cứ chứng minh tội phạm nên không khách quan.
2.2 Mức độ liên quan
Những sự vật, hiện tượng có thật, tồn tại khách quan chỉ được coi là chứng cứ khi chúng có liên quan đến vụ án, khi chúng chứng minh những điều phải biết nhưng chưa được biết trong vụ án hình sự. Tính phù hợp của chứng cứ thể hiện mối quan hệ khách quan, cơ bản của chứng cứ với vấn đề cần chứng minh. Nói cách khác, đó là mối quan hệ giữa các sự kiện mà bằng chứng dựa vào và đối tượng của bằng chứng.
2.3 Tính hợp pháp
Tính hợp pháp thể hiện ở chỗ chứng cứ được chứa đựng trong các nguồn và được thu thập bằng các phương tiện do luật tố tụng hình sự quy định.
Bộ luật tố tụng hình sự quy định về tính hợp pháp của chứng cứ trong các nguồn cụ thể như sau:
- Nguồn chứng cứ: Điều 87 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định nguồn chứng cứ bao gồm: vật chứng, lời khai, lời trình bày; Dữ liệu điện tử; Kết luận định giá, định giá tài sản; Biên bản khởi tố, điều tra, khởi tố, xét xử, thi hành án; Thi hành án và hợp tác quốc tế khác; Tài liệu và các đối tượng khác.
- Các biện pháp thu thập chứng cứ quy định từ Chương XI đến Chương XVI. Những tài liệu không được phản ánh đúng nguồn, được thu thập bằng các phương tiện do pháp luật quy định thì không được coi là chứng cứ để chứng minh tội phạm. Thuộc tính chứng cứ này được dùng để phân biệt chứng cứ với tài liệu chứa thông tin tội phạm được thu thập bằng các biện pháp trinh sát của cơ quan công an.
3. Phân loại chứng cứ
3.1 Bằng chứng trực tiếp và gián tiếp
Căn cứ vào nội dung của đối tượng chứng minh về nơi cư trú, việc chứng minh được phân thành hai loại là chứng minh trực tiếp và chứng minh gián tiếp. Như sau:
* Bằng chứng trực tiếp
Chứng cứ trực tiếp là chứng cứ chứng minh những điều liên quan đến bản chất vụ án, làm sáng tỏ tội phạm, người thực hiện tội phạm và các đối tượng chứng minh khác theo quy định tại Điều 85 Bộ luật tố tụng hình sự 2015. Chứng cứ trực tiếp là căn cứ để cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng khẳng định có tội phạm hay không, hành vi của bị can có đủ dấu hiệu cấu thành tội phạm hay không, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
Bằng chứng trực tiếp có thể là bằng chứng gốc hoặc bằng chứng được sao chép hoặc chụp ảnh.
* Bằng chứng gián tiếp
Chứng cứ tình tiết là chứng cứ chứng minh cho những tình tiết được dùng làm chứng cứ và những vấn đề khác có liên quan khi giải quyết vụ án. Chứng cứ tình tiết không phải là căn cứ để làm sáng tỏ bản chất vụ án, không trực tiếp chứng minh tội phạm và người thực hiện tội phạm mà chỉ chứng minh những tình tiết được dùng làm chứng cứ chứng minh tội phạm.
3.2 Bằng chứng gốc và Bằng chứng trùng lặp
Căn cứ vào nguồn gốc rõ ràng của chứng cứ, luật tố tụng hình sự chia chứng cứ thành chứng cứ gốc và chứng cứ được sao chép. Như sau:
* Bằng chứng gốc
Chứng cứ gốc là chứng cứ từ nguồn trực tiếp không qua trung gian. Những tình tiết có thật, khách quan của vụ án được ghi nhận, phản ánh từ các nguồn vật chất hoặc phi vật chất, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng tiếp nhận thông tin từ các nguồn này mà không qua trung gian.
* Bản sao dẫn chứng, tường thuật
Chứng cứ được sao chép hoặc kể lại là chứng cứ không đến từ nguồn trực tiếp mà phải qua một bước trung gian. Những tình tiết có thật, khách quan của vụ án do cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập không được phản ánh từ nguồn trực tiếp mà phải thông qua các khâu trung gian. Do được phản ánh qua một khâu trung gian nên chứng cứ trùng lặp có độ tin cậy thấp hơn chứng cứ gốc nhưng chứng cứ trùng lặp được kể lại có giá trị chứng minh nếu được kiểm tra, so sánh với chứng cứ gốc.3.3 Bằng chứng truy tố và bằng chứng gỡ tội
Trên cơ sở ý nghĩa của chứng cứ chứng cứ Bộ luật tố tụng hình sự quy định việc phân loại chứng cứ thành: chứng cứ buộc tội và chứng cứ buộc tội.
- Bằng chứng phụ trách
Chứng cứ buộc tội là chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của bị can, bị cáo, bị cáo cũng như các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự của những người này.
- Bằng chứng miễn trừ
Chứng cứ miễn trách nhiệm là chứng cứ xác định không có tội phạm hoặc hành vi của bị can, bị cáo, bị cáo không cấu thành tội phạm cũng như các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo.
4. Nguồn chứng cứ
Theo quy định tại Điều 87 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định về nguồn chứng cứ, cụ thể như sau:
4.1 Bằng chứng
Vật chứng là vật tồn tại bên ngoài thế giới khách quan chứa đựng dấu vết tội phạm được cơ quan tiến hành tố tụng thu thập và sử dụng làm căn cứ chứng minh tội phạm. Theo Điều 89 Bộ luật tố tụng hình sự 2015:
Vật trưng bày là vật được dùng làm công cụ, phương tiện phạm tội, vật mang dấu vết tội phạm, vật là vật phạm pháp, tiền hoặc vật có giá trị chứng minh tội phạm, người phạm tội hoặc có ý nghĩa đối với việc giải quyết vụ án. Vật chứng là phương tiện quan trọng để chứng minh tội phạm, giá trị chứng minh của vật chứng cao, có tính chất của sự kiện thực tế khách quan (dấu vết tội phạm) và nguồn gốc rõ ràng, chứa đựng sự đồng tồn tại trong vật chứng. Hiện vật đang ở dạng vật chất nên phải được thu thập toàn bộ, nhanh chóng để tránh mất mát, hư hỏng, hủy hoại hoặc đánh tráo. Trong quá trình thu thập chứng cứ, vật chứng phải được mô tả đúng tình hình thực tế trong báo cáo và bổ sung vào hồ sơ.
Việc xử lý vật chứng được quy định như sau:
- Hiện vật phải được bảo quản nguyên vẹn, không bị thất lạc, nhầm lẫn, hư hỏng. Việc bảo quản vật chứng được thực hiện như sau:
Vật chứng cần niêm phong phải được niêm phong ngay sau khi thu hồi. Việc niêm phong, mở niêm phong được lập biên bản và đưa vào hồ sơ vụ án. Việc niêm phong, mở niêm phong vật chứng được thực hiện theo quy định của Chính phủ;
Vật chứng là tiền, vàng, bạc, kim khí quý, đá quý, đồ cổ, chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, vũ khí quân dụng phải được giám định ngay sau khi thu thập và phải chuyển ngay để bảo quản tại Kho bạc Nhà nước hoặc cơ quan chuyên trách khác. Nếu vật chứng là tiền, vàng, bạc, kim khí quý, đá quý, đồ cổ lưu dấu vết của tội phạm thì tiến hành niêm phong theo quy định tại điểm a khoản này; vật chứng là vi khuẩn nguy hại, bộ phận cơ thể người, mẫu mô, mẫu máu và các mẫu vật khác của cơ thể người được bảo quản tại cơ quan chuyên trách theo quy định của pháp luật;
Vật chứng không thể đưa về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng để bảo quản thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng giao vật chứng đó cho chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp đồ vật, tài sản hoặc người thân thích của họ hoặc chính quyền địa phương, cơ quan, tổ chức nơi có vật chứng bảo quản;
Vật chứng thuộc loại mau hỏng hoặc khó bảo quản thì cơ quan có thẩm quyền trong phạm vi quyền hạn của mình quyết định bán theo quy định của pháp luật và chuyển tiền đến tài khoản tạm giữ của cơ quan có thẩm quyền tại Kho bạc Nhà nước để quản lý;
Vật chứng đưa về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng bảo quản thì cơ quan Công an nhân dân, Quân đội nhân dân, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có trách nhiệm bảo quản vật chứng trong giai đoạn điều tra, truy tố; cơ quan thi hành án dân sự có trách nhiệm bảo quản vật chứng trong giai đoạn xét xử và thi hành án.
- Người có trách nhiệm bảo quản vật chứng mà để mất mát, hư hỏng, phá hủy niêm phong, tiêu dùng, sử dụng trái phép, chuyển nhượng, đánh tráo, cất giấu, hủy hoại vật chứng của vụ án thì tuỳ tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của luật.
Trường hợp thêm, bớt, sửa đổi, đánh tráo, hủy, làm hư hỏng vật chứng của vụ án nhằm làm sai lệch hồ sơ vụ án thì phải chịu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của luật.4.2 Lời khai
- Lời khai của nhân chứng
Người làm chứng trình bày những gì mình biết được từ các nguồn tin về tội phạm, vụ án, nhân thân bị can, bị hại, mối quan hệ của họ với bị can, bị hại và những người làm chứng khác và trả lời các câu hỏi đặt ra.
Lời khai của người làm chứng chỉ có giá trị khi nội dung của lời khai phù hợp với các chứng cứ khác mà cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập được. Nếu lời khai của người làm chứng không thống nhất với các chứng cứ khác trong vụ án thì cần làm rõ nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn đó do phía người phạm tội khống chế, đe dọa, mua chuộc hay vì lý do nào khác.
- Lời thú tội của nạn nhân
Người bị hại trình bày chi tiết nguồn tin về tội phạm, vụ án, mối quan hệ của mình với bị cáo và trả lời các câu hỏi đặt ra.
Nạn nhân là người trực tiếp bị thiệt hại về vật chất và tinh thần nên lời khai của nạn nhân thường có yếu tố không khách quan như thường phóng đại thiệt hại hoặc do nóng giận với kẻ xâm hại, đầu óc kích động nên đã cung cấp những thông tin không chính xác về kẻ xâm hại cũng như diễn biến vụ việc. - Lời khai của nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự
Nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự trình bày các tình tiết liên quan đến việc bồi thường thiệt hại do tội phạm gây ra. Lời khai của nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự chứng minh mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra và những tình tiết khách quan có liên quan đến vụ án. Lời khai của những người này chỉ được dùng làm chứng cứ nếu phù hợp với sự thật khách quan, có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật.
- Lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án phải nộp những tình tiết liên quan trực tiếp đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ. Khi lấy lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, phải hỏi rõ những vấn đề liên quan, tránh để họ khai báo gian dối nhằm trốn tránh trách nhiệm là có liên quan đến tội phạm. - Lời khai của người bị tạm giữ, người bị tố giác, người bị đề nghị truy tố, thủ phạm tự thú, đầu thú, người bị bắt, người bị tạm giữ
Người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị tố giác, người bị đề nghị truy tố, người phạm tội tự thú, đầu thú, người bị bắt, người bị tạm giữ phải trình bày những tình tiết liên quan đến việc mình phạm tội.
- Ngoài ra, pháp luật tố tụng còn quy định về việc lấy lời khai của người tố giác, tin báo về tội phạm; lời khai của nhân chứng; lời khai của bị can, bị cáo.
4.3 Dữ liệu điện tử
Dữ liệu điện tử là nguồn chứng cứ mới được bổ sung trong Bộ luật tố tụng hình sự 2015, được quy định cụ thể tại Điều 99 như sau:
Dữ liệu điện tử là các ký hiệu, chữ cái, số, hình ảnh, âm thanh hoặc các nội dung tương tự được tạo ra, lưu trữ, truyền hoặc nhận bằng phương tiện điện tử.
- Dữ liệu điện tử được thu thập từ các phương tiện điện tử, mạng máy tính, mạng viễn thông, đường truyền và các nguồn điện tử khác.
- Giá trị chứng minh của dữ liệu điện tử được xác định căn cứ vào cách thức dữ liệu điện tử được tạo ra, lưu trữ hoặc truyền đi; làm thế nào để đảm bảo và duy trì tính toàn vẹn của dữ liệu điện tử; cách thức xác định bên chào hàng và các yếu tố liên quan khác.4.4 Kết luận đánh giá, dự toán tài sản
- Kết luận giám định
Kết luận giám định là văn bản do cá nhân hoặc cơ quan, tổ chức viết để kết luận về chuyên môn đối với vấn đề được trưng cầu, yêu cầu giám định.
Cơ quan, tổ chức, cá nhân kết luận về đối tượng trưng cầu, trưng cầu giám định và phải chịu trách nhiệm về kết luận đó.
Nếu việc đánh giá do tổ chuyên gia thực hiện thì tất cả các thành viên cùng ký vào bản kết luận. Trường hợp có ý kiến khác nhau thì mỗi người ghi ý kiến và kết luận của mình vào phần kết luận.
Trường hợp cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng không đồng ý với kết luận của người giám định thì phải nêu rõ lý do. Kết luận giám định của người được trưng cầu giám định mà phải bác bỏ, sửa đổi thì không có giá trị pháp lý và không được dùng làm căn cứ để giải quyết hồ sơ.
- Kết luận giám định bất động sản
Kết luận định giá tài sản là văn bản do Hội đồng định giá tài sản lập để kết luận về giá của tài sản được yêu cầu.
Hội đồng định giá tài sản kết luận giá tài sản và phải chịu trách nhiệm về kết luận này.
Kết luận định giá di sản phải có đầy đủ chữ ký của các thành viên Hội đồng định giá tài sản. Trường hợp không nhất trí với giá tài sản do Hội đồng quyết định thì các thành viên Hội đồng ghi ý kiến vào phần kết luận. Trường hợp cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng không đồng ý với kết luận định giá tài sản thì phải nêu rõ lý do; nếu kết luận chưa rõ thì quyết định giám định lại theo thủ tục chung quy định tại Bộ luật này.
Kết luận định giá của Hội đồng định giá tài sản vi phạm quy định của Bộ luật này và các quy định khác của Luật định giá là không có giá trị pháp lý và không được dùng làm căn cứ để giải quyết vụ án.
Ngoài ra, luật cũng quy định chứng cứ được thu thập từ các nguồn như: biên bản của các hoạt động thanh tra, kiểm sát, việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử theo quy định tại Điều 102 Bộ luật tố tụng hình sự 2015; Kết quả của trát tư pháp, hợp tác quốc tế được quy định tại Điều 103 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và các tài liệu, đồ vật khác của vụ án được quy định tại Điều 104 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
Nội dung bài viết:
Bình luận