Việc tra cứu, đánh giá chứng cứ theo quy định tại Điều 93 và Điều 108 của Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS) phải bảo đảm tính khách quan, đầy đủ, đầy đủ, chính xác và mối quan hệ giữa chứng cứ với vật chứng. Khẳng định tính hợp pháp và phù hợp là rất quan trọng.
![]()
Xin chào Công ty Luật ACC. Tôi tìm hiểu các quy định của pháp luật về chứng cứ trong tố tụng dân sự. Xin cho biết: Chứng cứ trong tố tụng dân sự là gì? Và chúng độc đáo như thế nào? Mong ý kiến của luật sư. Tôi xin chân thành cảm ơn!
Trả lời:
Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi cần tư vấn pháp luật đến bộ phận tư vấn pháp luật của Công ty luật ACC. Nội dung câu hỏi của bạn đã được đội ngũ luật sư của chúng tôi nghiên cứu và tư vấn cụ thể như sau:
Cơ sở pháp lý:
- Bộ luật tố tụng dân sự 20151. Tố tụng dân sự là gì?
Tố tụng dân sự là tập hợp các hoạt động nhằm giải quyết các vụ việc dân sự theo quy định của pháp luật.
2. Chứng cứ trong tố tụng dân sự là gì?
Việc tra cứu, đánh giá chứng cứ theo quy định tại Điều 93 và Điều 108 của Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS) phải bảo đảm tính khách quan, đầy đủ, đầy đủ, chính xác và mối quan hệ giữa chứng cứ với vật chứng. giá trị của mỗi bằng chứng là rất quan trọng. Vì mọi hoạt động tố tụng dân sự đều phải dẫn đến kết luận về giá trị chứng minh của chứng cứ, trên cơ sở đó mới có thể kết luận về vụ án, vụ việc dân sự.
Theo Từ điển Tiếng Việt của Nxb Khoa học xã hội xuất bản năm 1988, chứng cứ là “sự vật cụ thể (như lời nói hoặc việc làm, nhân chứng, tài liệu,...) chứng tỏ điều gì đó có thật”.
Như vậy, có thể hiểu chứng cứ (theo nghĩa chung nhất) là những gì có thật, phản ánh sự thật khách quan về vụ án và được thu thập theo một trình tự nhất định do pháp luật quy định.
Chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự, hành chính hay dân sự đều có những điểm chung là vừa mang tính lý luận sâu sắc, vừa mang tính thực tiễn cao. Đó là căn cứ quan trọng để xác định sự thật khách quan của vụ án.3. Có bằng chứng
Mọi sự việc dân sự đều phát sinh, diễn ra trong thế giới khách quan nên những tình tiết, sự kiện, diễn biến của sự việc dân sự đều tồn tại trong thế giới vật chất, để lại “dấu vết” trong thế giới vật chất với những hình thù, màu sắc khác nhau, nhưng thông thường có hai dạng dưới đây: :
Những dấu vết phi vật chất gắn với các tình tiết của vụ án đều được phản ánh trong ý thức con người. Bằng các biện pháp, hình thức thu thập chứng cứ để “vật chất hóa” các dấu vết này dưới những hình thức nhất định; Ví dụ: biên bản ghi lời khai của người làm chứng biết sự việc, người chứng kiến vụ việc...
Dấu vết vật chất, chẳng hạn như bằng chứng vật chất, biên nhận nợ, hợp đồng thế chấp, hợp đồng tín dụng trong tranh chấp đòi nợ, v.v. Những “dấu vết” được coi là chứng cứ của vụ án là sự phản ánh những khía cạnh riêng lẻ của sự thật vụ án, được thu thập theo một trình tự, thủ tục quy định làm cơ sở xác định sự thật vụ án, nhằm xác định đúng đắn giải quyết vụ việc, việc dân sự.4. 03 đặc điểm của chứng cứ trong dân sự
Bằng chứng có ba đặc điểm sau:
- Bằng chứng là cái có thực;
- Do đương sự, thể nhân, cơ quan, tổ chức khác nộp và được Tòa án thu thập theo trình tự, cách thức do Bộ luật dân sự quy định;
- Được Tòa án sử dụng làm căn cứ xác định các tình tiết khách quan của vụ án cũng như xác định việc phản đối của đương sự là có căn cứ và hợp pháp hay không.5.03 Đặc điểm của chứng cứ và tầm quan trọng của chứng cứ trong tố tụng dân sự
5.1. Thứ nhất, tính khách quan của bằng chứng:Khi chứng cứ đã xuất hiện thì nó sẽ tồn tại trong thế giới vật chất, cũng chính là thế giới khách quan, không phụ thuộc vào ý thức con người. Tuy nhiên, điều quan trọng là tránh nhầm lẫn tính khách quan của bằng chứng với sự hình thành của nó. Thông thường một vật, một văn bản... được hình thành từ ý chí chủ quan của một người, ví dụ: di chúc, nội dung di chúc do chủ sở hữu tài sản này viết, quy trình viết di chúc. Di chúc là quá trình hình thành văn bản thể hiện ý chí, mong muốn chủ thể của chủ thể đó mà sau này nếu có kiện tụng chia thừa kế thì di chúc trở thành nguồn chứng cứ. Khi di chúc này được lập và thu thập theo quy định của Bộ luật dân sự thì nội dung thể hiện ý chí của chủ sở hữu về việc định đoạt tài sản sẽ là chứng cứ của việc tranh chấp yêu cầu chia di sản theo di chúc và chứng cứ này tồn tại một cách khách quan. Vì vậy, con người chỉ có thể nhận thức, thu thập, nghiên cứu và đánh giá nó chứ không thể tạo ra chứng cứ theo đúng nghĩa và bản chất của chứng cứ. Mọi hành vi sửa chữa, thay đổi hay tạo ra cái gọi là chứng cứ, thì đó chắc chắn không phải là chứng cứ của vụ án, mà là chứng cứ giả. Vì vậy, khi thu thập, tìm kiếm chứng cứ cần đặc biệt chú ý đến tính khách quan của chứng cứ, xem xét nội dung tài liệu có xác thực hay không, nó xuất hiện vào thời điểm nào? Ai viết, ai quản lý, bảo quản hay phát hiện ra; chứng cứ đó có phản ánh đúng bản chất vụ án hay không... để xem xét, đánh giá đúng như bản chất của nó.
5.2. Thứ hai, sự liên quan của bằng chứng:
Khi xét xử hoặc khi Tòa án được triệu tập để giải quyết việc dân sự thì đương sự, người làm chứng, cơ quan, tổ chức... sẽ cung cấp cho chúng tôi rất nhiều thông tin, tài liệu nhưng chỉ những thông tin, tài liệu liên quan đến vụ việc dân sự trước Tòa án mới được thu thập để làm chứng cứ trong vụ án dân sự. Mối liên hệ này có thể trực tiếp, rất dễ nhận biết, nó giúp chúng ta nhận ra ngay bản chất, sự thật khách quan của vụ việc dân sự này.
Ví dụ 1: Trong vụ án đòi nợ, giấy xác nhận số tiền còn nợ do người nợ tự lập, hợp đồng thuê bất động sản trong trường hợp có tranh chấp về quyền, nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng thuê bất động sản ; di chúc trong vụ án yêu cầu chia thừa kế theo di chúc... là những tài liệu, chứng cứ liên quan trực tiếp đến các tình tiết cần chứng minh trong vụ án, đồng thời là chứng cứ trực tiếp.
Tuy nhiên, trên thực tế nhiều khi các tài liệu, chứng cứ liên quan đến vụ án chỉ mang tính chất gián tiếp được yêu cầu liên kết, xem xét, đánh giá nó với các tài liệu, tình tiết, cảm hứng khác, nếu không thì mới thấy được giá trị chứng minh của nó. Ví dụ 2: A khởi kiện đòi nợ B, A trình bày sáng ngày 10/01/2018 có cho B vay 10.000.000 đồng nhưng đến hạn B không trả. B khẳng định không vay tiền của A và cũng khai rằng ngày 10/01/2018 B có ngồi chơi bài với N, p và Q.
Tòa tiến hành lấy lời khai nhân chứng, hôm đó khi N, P, Q được yêu cầu làm chứng thì B không đánh bài với họ. Nhân chứng X khai, ngày 10/01/2018, B đến nhà đánh bạc và nói thiếu tiền mua máy xay, X nói với B là A có tiền nhàn rỗi nên hỏi vay. Nhân chứng H khai có nhìn thấy B đến nhà A vào ngày 10/01/2018, còn vì sao đến thì H không biết, nhưng khi B ra khỏi nhà A thì thấy B cầm một xấp tiền... Như vậy, nội dung lời khai của người làm chứng: N, p, Q, de X, de H... là những tài liệu, chứng cứ gián tiếp liên quan đến việc đòi nợ nếu chúng được để độc lập, tách bạch. của những lời khai nêu trên và các tài liệu, chứng cứ khác của vụ án thì những lời khai này không có ý nghĩa gì và không nói lên được điều gì về vụ án này. Nhưng nhìn vào mối quan hệ giữa các lời khai trên sẽ hé lộ những thông tin rất có ý nghĩa và khi đối chiếu nó với các tài liệu chứng cứ khác trong vụ án sẽ giúp chúng ta thấy rõ hơn sự khác biệt giữa hai lời khai.5.3. Thứ ba, tính hợp pháp của chứng cứ:
Tài liệu, chứng cứ... muốn trở thành chứng cứ thì phải được thu thập, bảo quản theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định thì mới có giá trị pháp lý. Ví dụ 3: Trong bản kê khai chứng cứ do đương sự A đưa ra, nội dung chính là bên A thừa nhận còn nợ B số tiền như số tiền mà B khởi kiện. Biên bản này không có chữ ký của A, không có chữ ký của thẩm phán lấy lời khai, biên bản không ghi thời gian, địa điểm lấy lời khai nên biên bản lấy lời khai này không có trong biên bản. phù hợp với quy định của luật, pháp luật nên nội dung của nó không được coi là chứng cứ.
Ví dụ 4: Bản khai đã đáp ứng các yêu cầu về hình thức của bản khai nhưng A đã xuất trình tài liệu (ví dụ: bản ghi lời khai, có xác nhận nguồn gốc của tài liệu). dữ liệu này) và chứng minh việc A khai nhận trong bản khai là do luật sư dùng vũ lực đe dọa, sự đe dọa rất mạnh, A phải khai theo ý của luật sư nên điều này là không đúng. Trong trường hợp này, sự thừa nhận của A trong biên bản trên không có giá trị chứng minh, không phải là chứng cứ của vụ án, vì văn bản không hợp pháp.
Ví dụ 5: Bản sao di chúc, hợp đồng bản chụp nhưng không có hợp pháp hóa lãnh sự, chứng thực là bản sao y bản chính; không có bản chính để xuất trình cho Tòa án, trong khi các bên liên quan không công nhận nội dung, chữ ký... trong các bản phô tô, giấy tờ này cũng không có giá trị chứng minh vì không đảm bảo tính pháp lý của chúng.
Như vậy, một tài liệu chỉ được coi là chứng cứ khi nó đảm bảo giá trị chứng minh của ba đặc điểm nêu trên và là căn cứ để giải quyết vụ án dân sự.6. Những gì không phản ánh đúng sự thật của vụ án dân sự thì không được coi là chứng cứ
Khi đã khẳng định chứng cứ là có thật, được thu thập theo quy định của bộ luật tố tụng dân sự và là căn cứ để giải quyết vụ án đúng đắn thì được coi là chứng cứ, những gì không phản ánh đúng sự thật của vụ án. án dân sự sẽ không được coi là chứng cứ của vụ án đó. Vì vậy, có những tài liệu tuy có nhưng không phản ánh đúng bản chất sự việc thì không được coi là chứng cứ.
Ví dụ 6: Trong hồ sơ của cơ quan nhà đất đang quản lý có một tài liệu viết: “nhà bị phá hủy trong chiến tranh”, nhưng sự thật nhà đó chỉ bị sạt mái, hỏng một phần tường, chỉ cần sửa chữa là có thể tiếp tục ỏ được. Như vậy, thực tế nhà chỉ bị hư hỏng, nhưng tài liệu ghi: “nhà bị phá huỷ trong chiến trành” đã phản ánh không thật chính xác, không đúng sự thật, nó không được coi là chứng cứ của vụ án.
Ví dụ 7: A là người mua nhà và nhờ B là em đứng tên trong giấy tờ sở hữu, nhưng do tham lam nên B đã khai nhà là của B, do B bỏ tiền mua cho A ở nhờ và kiện đòi A trả nhà. B đã xuất trình giấy tờ sở hữu nhà đứng tên B làm căn cứ cho yêu cầu của mình, còn A bác bỏ lời khai của B và xuất trình giấy uỷ quyền cho B đứng tên sở hữu nhà hộ A, đồng thời người bán nhà và các nhân chứng chứng kiến việc mua bán đều khai như lời của A. Như vậy, trong trường hợp này những nội dung ghi B là chủ sở hữu nhà thể hiện trong giấy sở hữu nhà đứng tên B không được coi là chứng cứ của vụ án, vì nếu thừa nhận những nội dung ghi trong giấy sở hữu nhà là chứng cứ của vụ án tranh chấp quyền sở hữu nhà thì phải thừa nhận B là chủ sở hữu nhà đang tranh chấp và như vậy đã không bảo đảm được quyền lợi hợp pháp của các bên, không giải quyết đúng nội dung vụ án. Ví dụ 8: Tương tự, kết luận giám định có thể là chứng cứ, nhưng nếu kết luận giám định là kết luận sai sự thật, không phản ánh đúng bản chất sự việc, ví dụ: chữ ký, chữ viết trong văn bản. Trường hợp tài liệu thực tế là của A nhưng kết quả giám định lại kết luận tài liệu đó thuộc về B thì nội dung kết luận này không được coi là chứng cứ của vụ án, cũng không phải là căn cứ để Tòa án đưa ra phán quyết.
Ví dụ 9: A lập di chúc giả yêu cầu chia di sản thừa kế theo nội dung di chúc thì di chúc giả này không thể được coi là chứng cứ của việc chia di sản thừa kế theo nội dung di chúc, ...
Như vậy, chỉ những gì có thật, được thu thập theo quy định của bộ luật tố tụng dân sự... mới được coi là chứng cứ của hồ sơ. Vì vậy, việc xác định những tình tiết, sự kiện nào được coi là chứng cứ của vụ án là không đơn giản trong hoạt động thực tiễn.
Sự hình thành một sự kiện, một tình tiết có thể xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó có hành vi của con người, nhưng một khi sự kiện, hiện tượng, tình tiết này đã phát sinh và được lấy làm chứng cứ của vụ án thì nó tồn tại khách quan với ý thức của con người, kể cả người tạo ra. Nó. Ví dụ 10: Hợp đồng vay tài sản do bên vay tiền tự lập, có chữ ký của các bên và có chứng nhận của công chứng nhà nước, có nhiều người chứng kiến việc ký kết và thực hiện hợp đồng vay tài sản. Nếu hợp đồng bị chấm dứt có nghĩa là mất đi một nguồn chứng cứ, nhưng việc giao kết và thực hiện hợp đồng là có thật, đã được thể hiện trong lương tâm của cả hai bên, những người đã từng là người chứng kiến (mà là một "dấu vết") phi vật thể và được tái hiện trong lời khai của họ. Chính nội dung lời khai đã thu thập đúng pháp luật, phản ánh đúng sự thật mới là chứng cứ của vụ án. Vì vậy, mặc dù hợp đồng vay tài sản (là nguồn chứng cứ) nói riêng không còn nhưng điều đó không có nghĩa là chứng cứ về việc giao kết và thực hiện hợp đồng cũng mất đi. Vì vậy, để có thể thu thập được nhiều tài liệu chứa đựng chứng cứ của vụ án thì cần phải thu thập nhiều nguồn chứng cứ mà thẩm phán cho là có khả năng chứa đựng chứng cứ.
Như vậy, chứng cứ của vụ án luôn tồn tại một cách khách quan, được thể hiện dưới các hình thức khác nhau. Nó có thể được sinh ra, thay đổi (về hình thức và nội dung) và mất đi do ý chí hoặc ý muốn của con người. Chứng cứ là sự kiện, hiện tượng, hoàn cảnh đã xuất hiện và tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau trong thế giới vật chất. Vì vậy, người dân có thể tìm chứng cứ, phát hiện, thu thập chứng cứ nhưng không thể tạo ra chứng cứ đối với vụ án dân sự. Những gì mà ai đó cố ý tạo ra để đánh lừa cơ quan chức năng và nhân dân là những tình tiết sai sự thật, tình tiết sai sự thật, chứng cứ sai sự thật thì không được coi là chứng cứ của vụ án. Tuy nhiên, trong thực tế vẫn xuất hiện “chứng cứ giả”, do những người thiếu trung thực, vì những lý do khác nhau đã tạo ra và cung cấp cho Tòa án, gây khó khăn cho việc đánh giá chứng cứ, phức tạp trước những chứng cứ mù mờ về thật, giả. Vì vậy, để xác định một sự kiện, tình tiết, tài liệu nào đó có phải là chứng cứ của vụ án dân sự hay không thì phải có mối liên hệ chặt chẽ với vụ việc dân sự do Tòa án giải quyết. Mối quan hệ này có thể là trực tiếp hoặc gián tiếp nên buộc tòa án, thẩm phán phải có sự chọn lọc khi thu thập tài liệu, chứng cứ.
Tuy nhiên, một sự kiện, tình tiết muốn trở thành chứng cứ của vụ án, muốn có giá trị chứng minh cho những yêu cầu, phản đối của các bên đương sự thì phải được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ Tài chính quy định. Các quy định mới của Luật tố tụng dân sự có hiệu lực pháp luật.
Nội dung bài viết:
Bình luận