Thành viên của ủy ban nhân dân nằm trong cơ cấu tổ chức của ủy ban nhân dân, ngoài Chủ tịch và Phó Chủ tịch ủy ban nhân dân. Thành viên UBND có vai trò cực kỳ quan trọng trong việc lãnh đạo thực hiện các hoạt động chuyên môn trên từng lĩnh vực cụ thể, từ đó tăng cường trách nhiệm, vị trí, vai trò của UBND đối với hoạt động quản lý nhà nước. Trong bài viết dưới đây, nhằm giúp bạn đọc có cái nhìn rõ hơn về thành viên UBND, phân tích các quy định của pháp luật hiện hành về thành phần, nhiệm vụ, quyền hạn của thành viên UBND, Ủy ban: Văn bản hợp nhất Luật tổ chức chính quyền địa phương 2019.
1. Thế nào là thành viên ủy ban nhân dân?
Ủy ban nhân dân là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, điều này được Hiến pháp 2013 giải thích như sau: Ủy ban nhân dân ở cấp chính quyền địa phương do hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra là cơ quan hành pháp của chính quyền. HĐND là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước HĐND và cơ quan hành chính nhà nước cấp trên. (khoản 1 Điều 114). Nói chung, ủy ban phổ biến có hai đạo luật:
Thứ nhất, với tư cách là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân là cơ quan đại diện quyền lực nhà nước trong việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước trên các lĩnh vực của đời sống xã hội ở địa phương bằng một quy chế. Tổ chức, chỉ đạo việc thi hành luật và nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp.– Thứ hai, với tư cách là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, Uỷ ban nhân dân có vai trò quản lý hành chính nhà nước trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội . cuộc sống ở địa phương của họ. Ủy ban nhân dân vừa chịu trách nhiệm theo trục dọc của cơ quan hành chính cấp trên, vừa chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân theo trục ngang. Theo giải thích tại khoản 2, khoản 1, Điều 123 Luật Tổ chức chính quyền địa phương: “Thành viên của Ủy ban nhân dân là người đứng đầu cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân chịu trách nhiệm về công việc của mình và báo cáo công tác của mình. với chính quyền địa phương, cơ quan quản lý nhà nước cấp trên về ngành, lĩnh vực”. Cụ thể cho cách giải thích này, Luật Tổ chức chính quyền địa phương cũng ghi nhận thành viên ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã. Ví dụ, thành viên Ủy ban nhân dân cấp tỉnh bao gồm thành viên là người đứng đầu cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, thành viên phụ trách quân sự, thành viên phụ trách công an. (khoản 1 mục 20). Theo cách xác định này, các thành viên của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh sẽ bao gồm giám đốc sở, cơ quan tương đương sở và ủy viên phụ trách quân sự, công an. Các thành viên của Uỷ ban nhân dân do Hội đồng nhân dân bầu theo sự giới thiệu của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân. Thành viên của Uỷ ban nhân dân không nhất thiết phải là đại biểu của Hội đồng nhân dân. Thành viên Ủy ban nhân dân được Hội đồng nhân dân miễn nhiệm, cách chức theo đề nghị của Chủ tịch Ủy ban nhân dân.
2. Quy định về thành phần, nhiệm vụ, quyền hạn của thành viên UBND?
Luật Tổ chức chính quyền địa phương không có quy định cụ thể nào để khẳng định thành phần, nhiệm vụ, quyền hạn của thành viên ủy ban nhân dân. Quá trình nghiên cứu pháp luật đã khiến tác giả kết luận những câu hỏi pháp lý sau:
2.1. Về các thành viên của Ủy ban nhân dân
Ủy viên Ủy ban nhân dân là người đứng đầu cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân. Tức là người đứng đầu các sở hoặc cơ quan tương đương với Sở (Ủy ban nhân dân tỉnh); người đứng đầu Phòng hoặc cơ quan tương đương với Phòng (Ủy ban nhân dân huyện); người đứng đầu ban (Ủy ban nhân dân xã) và các Ủy viên phụ trách quân sự và công an. Số lượng các Ủy viên tùy thuộc vào số lượng các cơ quan chuyên môn được thành lập ở mỗi cấp Ủy ban nhân dân.
Theo Từ điển giải thích thuật ngữ luật học, cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân là cơ quan có nhiệm vụ giúp Ủy ban nhân dân cùng cấp thực hiện chức năng quản lý nhà nước ở địa phương và bảo đảm sự thống nhất quản lý của ngành hoặc lĩnh vực công tác từ trung ương đến cơ sở.
Theo giải tích tại Khoản 1, Điều 9 Luật Tổ chức chính quyền địa phương: “Cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân được tổ chức ở cấp tỉnh, cấp huyện, là cơ quan tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân thực hiện chức năng quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực ở địa phương và thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn theo sự phân cấp, ủy quyền của cơ quan nhà nước cấp trên.“
Theo chiều ngang, các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân là cơ quan tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân thực hiện quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực ở địa phương và thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn theo sự ủy quyền của Ủy ban nhân dân, góp phần đảm bảo sự quản lý thống nhất đối với ngành hoặc lĩnh vực công tác từ trung ương đến cơ sở. Trong hoạt động của mình, các cơ quan chuyên môn chịu sự chỉ đạo, quản lý của Ủy ban nhân dân về tổ chức, biên chế và công tác.
2.2. Về nhiệm vụ và quyền hạn
Nhiệm vụ, quyền hạn của thành viên UBND được xác định theo trách nhiệm giải quyết công việc, theo đó tại Điều 123 Luật Tổ chức chính quyền địa phương ghi nhận 02 trách nhiệm cơ bản:
Thứ nhất, được Chủ tịch Ủy ban nhân dân phân công phụ trách lĩnh vực cụ thể và chịu trách nhiệm trước Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân về thực hiện nhiệm vụ được phân công; cùng các thành viên khác của UBND chịu trách nhiệm tập thể về hoạt động của UBND; báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân khi có yêu cầu.
Hoạt động của các thành viên Uỷ ban nhân dân phụ thuộc chặt chẽ vào hoạt động của Uỷ ban nhân dân, nhiệm vụ, quyền hạn của các thành viên là trên cơ sở sự uỷ quyền và phân công của Chính phủ, Uỷ ban nhân dân là cơ quan quản lý chuyên môn của Uỷ ban nhân dân. Vì vậy, việc quy trách nhiệm trước ủy ban nhân dân và chủ tịch ủy ban nhân dân là hoàn toàn hợp lý, trách nhiệm này có thể là trách nhiệm cá nhân hoặc trách nhiệm cơ quan lãnh đạo nhưng chỉ dẫn đến lỗi của cơ quan chuyên môn. Đồng thời, việc báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân xuất phát từ việc Ủy viên Ủy ban nhân dân do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu, cơ quan này có quyền được nắm bắt tất cả hoạt động của Ủy viên, việc báo cáo công tác còn là cơ sở để đại biểu Hội đồng nhân dân thực hiện quyền chất vấn đối với Ủy viên Ủy ban nhân dân.
Thứ hai, tham dự đầy đủ các phiên họp Ủy ban nhân dân; thảo luận và biểu quyết những vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban nhân dân.
Là một phần trong cơ cấu tổ chức của Ủy ban nhân dân, các phiên họp còn là nơi để bàn bạc, thảo luận, quyết định các vấn đề quan trọng của cơ quan, vì vậy, Ủy viên Ủy ban nhân dân có nhiệm vụ phải tham dự đầy đủ các phiên họp này, đưa ra ý kiến và tiến hành thảo luận, biểu quyết những vấn đề thuộc nhiệm vụ quyền hạn của Ủy ban nhân dân theo quy định của pháp luật, đó cũng là cách thể hiện chế độ làm việc tập thể và quyết định theo đa số trong hầu hết các cơ quan nhà nước ở Việt Nam.
Theo Khoản 1, Điều 96 Luật Tổ chức chính quyền nhân dân: “Đại biểu Hội đồng nhân dân có quyền chất vấn … Ủy viên Ủy ban nhân dân…. Người bị chất vấn phải trả lời về những vấn đề mà đại biểu Hội đồng nhân dân chất vấn.” Như vậy, quy định này làm phát sinh nhiệm vụ của Ủy viên Ủy ban nhân dân trong việc trả lời chất vấn đối với những vấn đề thuộc lĩnh vực chức trách của mình.Chất vấn là việc đại biểu Hội đồng nhân dân nêu ra và yêu cầu những người đứng đầu các cơ quan chuyên môn trả lời về trách nhiệm của họ đối với những vi phạm pháp luật, những biểu hiện yếu kém, trì trệ, không thi hành nghiêm chỉnh, hoặc thi hành không đến nơi, đến chốn các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nghị quyết của Hội đồng nhân dân, không thực hiện hoặc có thái độ xem thường các kiến nghị xác đáng của Thường trực Hội đồng nhân dân, biểu hiện tham ô, tham nhũng…xảy ra thuộc lĩnh vực thẩm quyền mà họ có trách nhiệm quản lý. Thông qua hoạt động thách thức, những tồn tại, hạn chế nêu trên cần được khắc phục, giải quyết, góp phần bảo đảm quyền và lợi ích của nhân dân địa phương, tăng cường trật tự, công khai, minh bạch và hiệu quả, hiệu lực của cơ quan nhà nước và người đứng đầu cơ quan nhà nước, qua đó nâng cao năng lực, trách nhiệm của những người giữ chức vụ lãnh đạo trong các cơ quan Nhà nước của Tỉnh được xem xét, đánh giá.
Đại biểu sử dụng quyền chất vấn như một biện pháp cuối cùng để buộc cơ quan, cá nhân bị chất vấn công khai phải chịu trách nhiệm; và thông qua ảnh hưởng mạnh nhất của cơ quan có thẩm quyền, nó có thể bù đắp cho những thiếu sót của cơ quan hoặc của người được phỏng vấn.
Nội dung bài viết:
Bình luận