Vị trí pháp lý của Chủ Tịch nước trong hệ thống bộ máy nhà nước

Chủ tịch nước là nguyên thủ quốc gia, đại diện cho nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại. 

Trong hệ thống bộ máy nhà nước của các nước hiện đại hầu như  có một thiết chế đặc biệt với những tên gọi khác nhau như: Quốc vương, Nguyên soái, Tổng thống, Đoàn chủ tịch, Hội đồng liên bang, Hội đồng nhà nước. , Chủ tịch. Các cơ cấu này có vị trí  rất khác nhau trong bộ máy nhà nước của mỗi nước nhưng đều có  quy định chung là Nguyên thủ quốc gia - Head of State, có chức năng đại diện cho đất nước trong các vấn đề đối nội và đối ngoại. Theo hiến pháp hiện hành, người đứng đầu nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được chỉ định là chủ tịch nước.  Nguồn gốc của thể chế  này là  Vua, hay  Hoàng Hậu của các chế độ chính trị  nô lệ và  phong kiến ​​toàn trị trước đây. Trong cách mạng tư sản, với chủ trương đánh đổ  chuyên chế, để xây dựng nền dân chủ tư sản, thiết chế nguyên thủ quốc gia  là một trong những mục tiêu  phải bị xóa bỏ hoàn toàn. Vì vậy, sự tập trung quyền lực vào tay  Vua, hay Nữ hoàng với tư cách là một trong những biểu hiện quan trọng của chế độ quân chủ chuyên chế, cần phải bị phá vỡ bằng nhiều biện pháp khác nhau. Một trong những biện pháp  là cần  phân chia quyền lực, tức là quyền lực nhà nước của nhà vua phải được chia sẻ giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp, cả về lý luận và thực tiễn. . Nơi nào cách mạng tư sản giành được thắng lợi hoàn toàn thì  không còn sự hiện diện của Nhà vua trong bộ máy nhà nước và ngược lại, nơi nào cách mạng chưa giành được thắng lợi  hoàn toàn thì  có sự hiện diện và quyền lực của Nhà vua. 

Vị trí pháp lý của Chủ Tịch nước trong hệ thống bộ máy nhà nước
Vị trí pháp lý của Chủ Tịch nước trong hệ thống bộ máy nhà nước

 Về bản chất, nguyên thủ quốc gia là một thiết chế  thuần túy của bộ máy nhà nước cộng sản do nền dân chủ tư sản để lại. Với thắng lợi của cách mạng tư sản và sự ra đời của chế độ đại nghị, về nguyên tắc, quốc hội là cơ quan nắm quyền lực của nhà nước, vừa là “người nhân danh nhà nước” vừa là “người đứng đầu nhà nước”. , tức là nguyên thủ quốc gia thay thế người chuyên quyền trước đây trong nhà nước phong kiến. Tuy nhiên, giai cấp tư sản vì nhiều lý do, trong đó có việc muốn lợi dụng địa vị  của nhà vua cho mục đích chính trị của mình, đã không xóa bỏ hoàn toàn ngôi vua phong kiến ​​mà vẫn để nhà vua tồn tại để “trị vì nhưng không cai trị”. 

 Các nước tư bản được coi là tiến bộ có hình thức chính thể cộng hòa, nhưng họ tạo  ra một cơ cấu mới gọi là Tổng thống, với chức vụ Vua-Vua lập hiến như nhau. Vua, Tổng thống được coi là Nguyên thủ quốc gia nhưng không còn chuyên chế theo đúng nghĩa của thuật ngữ. Thành ngữ  nhiều nơi:  Vua trị vì mà không trị đã phản ánh  đúng  vị trí, vai trò của thiết chế  này.  Nguyên thủ quốc gia (vua, tổng thống) nói chung có vai trò thực tế không đáng kể trong cơ chế của nhà nước tư sản. Một số nước thiết lập hệ thống nghị viện "bảo thủ" (có nước gọi là cộng hòa tổng thống), tổng thống được trao nhiều quyền  hơn - vừa là nguyên thủ quốc gia vừa đứng đầu ngành hành pháp. Vị trí của nguyên thủ quốc gia kiểu này cũng giống như vị trí của nhà vua trong chế độ quân chủ nhị nguyên tồn tại ở buổi đầu của  nhà nước tư sản, sau khi chế độ phong kiến ​​tan rã. 

  Nhìn chung, sự hiện diện của nguyên thủ quốc gia ở các nước tư bản chủ nghĩa có những diện mạo rất đa dạng, nhưng cũng có vai trò nhất định trong việc tổ chức quyền lực nhà nước. Trên hết là vai trò biểu tượng của quốc gia, liên kết và điều phối  các nhánh quyền lực, thể hiện tầm nhìn về sự thỏa hiệp giai cấp ở các nước tư bản chủ nghĩa. Nguyên thủ quốc gia được nhà nước tư sản sử dụng như  một thiết chế còn sót lại tiềm ẩn của chế độ phong kiến, để sử dụng  khi có cơ hội xảy ra, khi sở hữu của tất cả các thiết chế tư nhân đã bị tê liệt, cũng như  để trấn áp phong trào công nhân. cách mạng. 

 Hành pháp của nhà nước tư bản được chia thành hai bộ phận; Hành pháp tượng trưng và quyền lực thực sự. Cơ quan hành  pháp tượng trưng của các quốc gia đại diện do Quốc vương/Tổng thống nắm giữ, và quyền hành pháp thực sự do Thủ tướng nắm giữ. Cả người điều hành mã thông báo và người điều hành  thực sự đều do một người được bầu cử phổ thông đứng đầu là Tổng thống của chế độ tổng thống.  

 Đoàn Chủ tịch, Hội đồng Nhà nước ở các nước xã hội chủ nghĩa trước đây được coi là nguyên thủ quốc gia tập thể. Một số nước xã hội chủ nghĩa khác, do truyền thống lịch sử, vẫn giữ chủ tịch nước, mặc dù chủ tịch nước  được coi là nguyên thủ quốc gia (nguyên thủ quốc gia) nhưng phát sinh từ cơ quan quyền lực Nhà nước, Nhà nước cao nhất và cùng  cơ quan, thực hiện  chức năng Nguyên thủ quốc gia. 

 Như vậy, có thể nói thiết chế  Nguyên thủ quốc gia (riêng, riêng) là một thiết chế đặc thù của hệ thống chính trị  nô lệ và nhất là của hệ thống chính trị phong kiến ​​cũ. Đi đến thể chế  chính trị dân chủ-tư sản  này rất hay thay đổi tùy thuộc vào mô hình tổ chức quyền lực nhà nước ở mỗi nước. Nếu Nhà vua/Nguyên thủ quốc  gia đảm nhận chức năng lập pháp thực sự thì đó là một trong những biểu hiện quan trọng của chế độ chuyên chế phong kiến. Vì vậy, nguyên thủ quốc gia về nguyên tắc nguyên thủ quốc gia của các  nước tư bản không cho phép nguyên thủ quốc gia đảm nhận chức năng lập pháp, có lẽ chỉ  nhằm mục đích kiềm chế. Do đó, các học giả phân định tất cả nguyên thủ quốc gia của các  nước tư bản đều nắm quyền hành pháp.  

 Nếu như ở nhà nước tư bản chủ nghĩa có những biểu hiện khác, thì ở nhà nước xã hội chủ nghĩa, bộ máy nhà nước của những năm trước đây được tổ chức theo chế độ tập trung, mọi quyền lực nhà nước là thống nhất (tập trung) ở cơ quan đại diện cao nhất cho quyền lực nhà nước  của nhân dân (Xô viết tối cao, Quốc hội), về nguyên tắc thiết chế nguyên thủ quốc gia được thiết lập một cách riêng biệt là không cần thiết, nếu không cần thiết thì không thể tích hợp  các thiết chế của một chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa. Vì những lý do này, chức năng của Nguyên thủ Quốc gia luôn được thống nhất trong các chức năng thường trực giữa hai kỳ họp của Xô Viết Tối cao/Nghị viện, cả hai đều do cơ quan này thực hiện. Do đó, ở các quốc gia thuộc Liên Xô cũ và các hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, không có thiết chế nguyên thủ quốc gia. Mọi chức năng của Nguyên thủ quốc gia được thực hiện bởi cơ quan thường trực giữa hai kỳ họp của Xô viết tối cao (Cơ quan lập pháp) Hội đồng Nhà nước (Cộng hòa Dân chủ Đức cũ). Theo lý luận về nhà nước xã hội chủ nghĩa, về nguyên tắc không cần thiết phải có một thiết chế tách biệt với nguyên thủ quốc gia. Cơ quan đại diện cao nhất của quyền lực nhà nước  nhân dân thống nhất mọi quyền và  bảo đảm  quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, vượt qua dân chủ hình thức như trong cơ chế nhà nước tư hữu. Sự có mặt của các cụm từ "nguyên thủ quốc gia" (Đoàn Chủ tịch Liên Xô, Hội đồng Nhà nước, Chủ tịch nước) phần lớn là do thông lệ quốc tế - nhằm tạo thuận lợi cho việc thực hiện một số hoạt động của Nhà nước. tính trang trọng, hình thức và trong chừng mực nào đó điều phối  hoạt động của các cơ quan bộ máy nhà nước. Vị trí thứ hai  của “nguyên thủ quốc gia” xã hội chủ nghĩa này khá khác nhau tùy theo quốc gia. 

 Trong hệ thống nhà nước của chúng ta nêu trên, thiết chế Nguyên thủ quốc gia được tổ chức khác nhau thông qua các bản Hiến pháp. Trong Hiến pháp năm 1946 và 1959, ông là chủ tịch nước.  Hiến pháp 1980 là Hội đồng Nhà nước và  nay, Hiến pháp 1992 trở lại hình thức Chủ tịch nước. Vị trí và tính chất của các thiết chế này cũng khác nhau tùy theo  giai đoạn phát triển của tổ chức nhà nước. Trong mỗi bản Hiến pháp đều kế thừa và phát triển những nguyên tắc cơ bản về tổ chức bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa nói chung và về chế định Nguyên thủ quốc gia nói riêng. 

 Trong Hiến pháp 1946,  tuy không xác định Chủ tịch nước nhưng theo  quy định về thẩm quyền thì ông vừa là nguyên thủ quốc gia, vừa là người trực tiếp điều hành chính phủ. Tổng thống do Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc bầu ra với nhiệm kỳ 5 năm (không theo nhiệm kỳ của Nghị viện nhân dân -  3 năm). Chủ tịch nước nhân danh Nhà nước; nắm quyền  chỉ huy quân đội cả nước, bổ nhiệm hoặc cách chức các tướng lĩnh lục quân, hải quân và không quân; ban hành luật do Quốc hội thông qua; trao huân chương và  bằng  danh dự; ký hiệp ước với các nước; cử đại biểu Việt Nam đi nước ngoài, tiếp  đại biểu ngoại giao  các nước; tuyên chiến hoặc đình chiến; ân xá; to Nghị viện để đưa ra Nghị viện biểu quyết; bổ nhiệm Thủ tướng, nhân viên Nội các và các quan chức cấp cao của các cơ quan chính phủ. Tổng thống có quyền (trong thời hạn 10 ngày) yêu cầu Nghị viện thảo luận lại các luật đã  thông qua. Chủ tịch nước không có trách nhiệm đảm nhận trừ trường hợp phạm tội phản quốc (Chương IV và Điều 31 Chương III). Như vậy ở đây tổng thống có địa vị  lớn tương tự như tổng thống ở các nước cộng hòa tổng thống hay các nước cộng hòa lưỡng tính tư sản.  Trong bộ máy Nhà nước theo Hiến pháp 1959, Chủ tịch nước được tổ chức riêng thành một thiết chế  độc lập có tính chất Nguyên thủ quốc gia, không còn kiêm nhiệm chức năng thừa hành của Chính phủ như trong Hiến pháp 1946. Chủ tịch nước thay mặt đất nước thực hiện các chức năng  về đối nội và đối ngoại; tham gia  các hoạt động của nhà nước trên các lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp. Có thể nói, chủ tịch nước hiện là khâu điều phối  giữa Quốc hội và chính phủ, nhưng chủ yếu vẫn dựa vào chính phủ như việc bổ nhiệm,  miễn nhiệm Thủ tướng, Phó thủ tướng và các thành viên khác. của Hội đồng Chính trị. chính phủ; nếu cần, có quyền tham dự và chủ tọa các phiên họp của Hội đồng Chính phủ. Chủ tịch nước do Quốc hội bầu trong số công dân và  chịu trách nhiệm trước Quốc hội. 

 Hiến pháp năm 1980 đã thiết lập chế độ tổng thống tập thể theo  mô hình phổ biến ở các nước xã hội chủ nghĩa Liên Xô và Đông Âu. Hội đồng Nhà nước - cơ quan tối cao quản lý thường xuyên  Quốc hội là Chủ tịch tập thể  nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Việc tổ chức chế độ chủ tịch nước tập thể này, bên cạnh một số thuận lợi là những vấn đề thuộc thẩm quyền của Nguyên thủ quốc gia đều được thảo luận tập thể và quyết định theo đa số, thường  chắc chắn và tránh được những thiếu sót chủ quan, bộ máy nhà nước gọn nhẹ hơn, vân vân. Tuy nhiên, nó cũng chứa đựng nhiều hạn chế khi mọi vấn đề đều phải thảo luận tập thể và quyết định theo đa số nên thường chậm và chưa xác định rõ hoạt động tập thể của cơ quan thường trực  Quốc hội và  trách nhiệm cá nhân trong lĩnh vực pháp luật. hoạt động, cụ thể là hoạt động đại diện cho Nhà nước. 

 Trong Hiến pháp 1992,  chế định tổng thống được khôi phục và hoàn thiện hơn. Mô hình  này vừa kế thừa những ưu điểm của mô hình trước, vừa giữ được sự gắn kết giữa Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước trong việc thực hiện  chức năng Nguyên thủ quốc gia (là đặc trưng của Quốc hội). bộ máy nhà nước) đồng thời bảo đảm sự phân bổ và phối hợp giữa các cơ cấu của bộ máy nhà nước. Theo quy định của Hiến pháp (Điều 101), Chủ tịch nước là nguyên thủ quốc gia, đại diện cho nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại. Việc quay lại thiết chế chủ tịch nước  góp phần củng cố sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực thi quyền lực nhà nước trong thời kỳ đổi mới. 

  Chủ tịch nước do Quốc hội bầu trong số đại biểu Quốc hội theo sự giới thiệu của Ủy ban thường vụ Quốc hội, có cùng nhiệm vụ với  Quốc hội, chịu trách nhiệm và báo cáo  trước Quốc hội. Điều này thể hiện sự xuất phát, gắn bó giữa Chủ tịch nước với Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Về mặt lý luận, như đã trình bày ở trên, trong chế độ xã hội chủ nghĩa,  chức năng đứng đầu nhà nước cũng  thuộc về cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất (Quốc hội). Vì vậy, trước đây, Hội đồng Nhà nước  trong Quốc hội là chủ tịch tập thể. Nay, Hiến pháp 1992 đã tách Chủ tịch nước thành một thiết chế riêng nhưng vẫn nghiêng về  Quốc hội, có sự phối hợp chặt chẽ với Quốc hội. 

 Mối quan hệ giữa nguyên thủ quốc gia và chính phủ luôn là mối quan hệ chặt chẽ trong bộ máy nhà nước tư sản. Tùy theo mức độ quan hệ mà phân biệt “hai đầu hành pháp” (với nguyên thủ quốc gia và thủ tướng với người đứng đầu chính phủ) và “một đầu hành pháp” (người đứng đầu nhà nước đồng thời là Trưởng đặc khu). ). Trong cơ chế của Nhà  nước ta, mối quan hệ giữa Chủ tịch nước và Chính phủ  không hoàn toàn giống như ở các nước tư bản, nhưng có  nét giống nhau: Chủ tịch nước đề nghị Quốc hội bầu, bãi nhiệm, bãi nhiệm chức vụ Thủ tướng. ; trên cơ sở nghị quyết của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ; Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chịu trách nhiệm trước Chủ tịch nước, Phó Thủ tướng, các Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ trước Chủ tịch nước. Việc xác định mối quan hệ như vậy thể hiện việc tăng cường vai trò của Chủ tịch nước trong bộ máy hành pháp và bảo đảm sự phối hợp chặt chẽ giữa Quốc hội, Chủ tịch nước và Chính phủ.  Trước đây, mối quan hệ giữa Chủ tịch nước (Hội đồng Nhà nước) và hai cơ quan này không được xác định rõ ràng. Hiến pháp hiện hành thể hiện mối quan hệ này trên tinh thần bảo đảm  Chủ tịch nước liên kết, phối hợp với tất cả các cơ quan của bộ máy nhà nước. Chủ tịch nước đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; bổ nhiệm Thẩm phán Toà án nhân dân các cấp và Kiểm sát viên, Điều tra viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao. 

  Khác với bất kỳ quốc gia nào trên thế giới, Nguyên thủ quốc gia của Nhà nước Việt Nam kể từ khi thành lập  nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cho đến  nay theo Hiến pháp năm 1992 hiện hành luôn  là một thiết chế do Nhà nước tạo ra. Quốc hội/Nghị viện nhân dân do Hiến pháp  1946 bầu ra, và trên hết cơ quan này phải báo cáo với Quốc hội.

Nội dung bài viết:

    Hãy để lại thông tin để được tư vấn

    comment-blank-solid Bình luận

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo