1. Khái niệm chủ đề kinh doanh
Khái niệm chủ thể kinh doanh không được thể hiện rõ trong luật dưới góc độ pháp lý mà thể hiện hành vi kinh doanh của chủ thể kinh doanh hiểu theo nghĩa thực tiễn và pháp lý là các pháp nhân, thương nhân thực hiện các hành vi thương mại trên thực tế. Chủ thể kinh doanh là tổ chức, cá nhân, tổ hợp tác, hộ gia đình được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh (hoặc giấy phép đầu tư đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài) và thực hiện các hoạt động kinh doanh vì lợi nhuận. Theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2020: Công ty là tổ chức có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch và được đăng ký thành lập theo quy định của pháp luật nhằm mục đích kinh doanh. Mỗi thương nhân là một thực thể kinh doanh và mỗi doanh nghiệp là một thương gia bởi vì nó có đăng ký kinh doanh. Và thương nhân không nhất thiết phải là doanh nghiệp. Một số thương nhân không phải là doanh nghiệp như hộ kinh doanh, hợp tác xã. Thương nhân có nội hàm rộng hơn, tức là thực thể kinh doanh có nghĩa rộng hơn so với khái niệm doanh nghiệp.

chủ thể kinh doanh và chủ sở hữu doanh nghiệp
2. Dấu hiệu của chủ thể kinh doanh Chủ thể kinh doanh có các dấu hiệu sau:
1) Là cơ quan đoàn thể được tổ chức dưới một số hình thức như hộ kinh doanh hoặc hộ cá thể nghề nghiệp;
2) Được cơ quan đăng ký kinh doanh cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc cơ quan quốc gia quản lý đầu tư nước ngoài cấp giấy phép đầu tư;
3) Tiến hành các hoạt động đầu tư, sản xuất, kinh doanh, dịch vụ trên thị trường một cách độc lập và thường xuyên để sinh lời. Chủ thể kinh doanh tại Việt Nam bao gồm: doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã, doanh nghiệp, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, cá nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác thương mại. Đạo luật Thương mại 2005 sử dụng thuật ngữ thương nhân để chỉ các thực thể kinh doanh tham gia vào các hoạt động thương mại như mua bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ thương mại hoặc xúc tiến thương mại một cách độc lập và thường xuyên. Chủ thể kinh doanh là tổ chức, cá nhân, tổ hợp tác, hộ gia đình được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh (hoặc giấy phép đầu tư đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài) thực chất là hoạt động thương mại để kiếm lời. Có một số khác biệt giữa các thực thể kinh doanh và tập đoàn như sau:
– Số lượng lao động: các chủ thể kinh doanh có thể bị hạn chế, ví dụ như kinh doanh theo hình thức doanh nghiệp gia đình, trong khi các công ty có thể tự do sử dụng lực lượng lao động.
– Các điều khoản thương mại của các công ty có thể yêu cầu cấp phép phụ, các thực thể thương mại có thể hạn chế hơn. Ngoài ra, sự phân biệt này còn dựa trên một số khía cạnh khác về địa vị pháp lý và cơ quan quản lý.
3. Đối tượng kinh doanh trên sở giao dịch chứng khoán
Ở nước ta hiện nay, khái niệm kinh doanh chứng khoán được hiểu theo nghĩa khá rộng và về cơ bản giống với khái niệm kinh doanh chứng khoán trong pháp luật của các nước trên thế giới, cụ thể là các nước Nam Á-Đông. Cụ thể, tại Khoản 19 Điều 6 Luật Chứng khoán quy định: “Kinh doanh chứng khoán là việc thực hiện các hoạt động môi giới chứng khoán, tự doanh chứng khoán, bảo lãnh phát hành chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán, lưu ký chứng khoán, quản lý quỹ đầu tư chứng khoán và quản lý danh mục đầu tư chứng khoán”.
- công ty chứng khoán Công ty chứng khoán là công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn được thành lập và hoạt động theo pháp luật về chứng khoán và các quy định khác của pháp luật để thực hiện một, một số hoặc tất cả các nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán sau đây theo giấy phép do Ủy ban Chứng khoán Nhà nước cấp: môi giới chứng khoán ; Đăng ký mua chứng khoán; Tư vấn đầu tư chứng khoán.
- quỹ đầu tư chứng khoán Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, quỹ đầu tư chứng khoán là quỹ bao gồm phần vốn góp của nhà đầu tư ủy thác cho công ty quản lý quỹ quản lý và đầu tư tối thiểu 60% giá trị tài sản của quỹ chứng khoán.
- Công ty đầu tư chứng khoán (NĐT) Công ty đầu tư chứng khoán là công ty được thành lập từ vốn góp của các nhà đầu tư và sử dụng vốn góp này để đầu tư chủ yếu vào chứng khoán nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận.
- công ty quản lý quỹ Công ty quản lý quỹ là doanh nghiệp hoạt động dưới hình thức công ty cổ phần hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn, được thành lập để thực hiện nghiệp vụ quản lý quỹ đầu tư chứng khoán và một số hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Theo khái niệm về công ty quản lý quỹ (Fund Management) trên thị trường chứng khoán Mỹ, công ty quản lý quỹ là công ty chuyên quản lý các quỹ đầu tư. Quỹ đầu tư được tổ chức như một công ty, phát hành cổ phiếu. Một công ty đầu tư sử dụng một cố vấn đầu tư hoặc người quản lý đầu tư để quyết định loại chứng khoán nào sẽ được đưa vào danh mục đầu tư của quỹ. Người quản lý quỹ có toàn quyền quản lý danh mục đầu tư, mua, bán chứng khoán phù hợp với mục tiêu đầu tư của quỹ. Quản lý quỹ được cấu trúc theo hai hình thức: quản lý quỹ đóng và quản lý quỹ mở. Tại Việt Nam, công ty quản lý quỹ quản lý các quỹ đầu tư chứng khoán. Quỹ đầu tư vào chứng khoán có thể chuyển nhượng có thể dưới hình thức quỹ đại chúng hoặc quỹ xã hội và là quỹ đóng.
4. Phân biệt chủ thể kinh doanh và chủ doanh nghiệp
Về cơ bản, đây là tất cả các thực thể tham gia vào các hoạt động kinh doanh với mục đích kiếm lợi nhuận. Các hoạt động kinh doanh được thực hiện bởi chủ thể kinh doanh nói chung hay chủ sở hữu doanh nghiệp nói riêng đều có những đặc trưng cơ bản giống nhau sau đây:
Thứ nhất, cả chủ thể kinh doanh và chủ sở hữu doanh nghiệp đều có một điểm chung giống nhau đó chính là thực hiện các hoạt động kinh doanh mang tính chất nghề nghiệp. Điều này thể hiện qua việc hoạt động kinh doanh mà các chủ thể này thực hiện được coi là công việc mang tính chất lâu dài, ổn định và tạo ra thu nhập.
Thứ hai, việc thực hiện các hoạt động kinh doanh của chủ thể kinh doanh và chủ sở hữu doanh nghiệp đều diễn ra trên thị trường, đa dạng về lĩnh vực, ngành nghề hoạt động
Thứ ba, chủ thể kinh doanh và chủ sở hữu doanh nghiệp thực hiện các hoạt động kinh doanh của mình một cách thường xuyên, liên tục và độc lập.
Thứ tư, các hoạt động kinh doanh mà chủ thể kinh doanh nói chung và chủ sở hữu doanh nghiệp nói riêng thực hiện đều cùng nhằm mục đích tạo ra lợi nhuận, sinh lời
Tuy nhiên, không phải tất cả chủ thể kinh doanh đều được xác định là chủ sở hữu doanh nghiệp, có thể phân biệt chủ thể kinh doanh và chủ sở hữu doanh nghiệp ở những đặc điểm cơ bản sau đây:
– Thứ nhất, chủ thể kinh doanh đa dạng hơn chủ sở hữu doanh nghiệp về đối tượng thực hiện. Cụ thể chủ thể kinh doanh bao gồm cả chủ sở hữu doanh nghiệp và các tổ chức, cá nhân khác như hộ gia đình, tổ hợp tác, hộ kinh doanh,…Không phải tất cả các chủ thể kinh doanh đều bắt buộc phải đăng ký thành lập doanh nghiệp.
Thứ hai, chủ doanh nghiệp chỉ bao gồm tổ chức, cá nhân đã thành lập doanh nghiệp theo quy định của pháp luật. Là tổ chức, cá nhân đứng tên trên giấy phép kinh doanh của công ty. Như vậy, căn cứ vào những nội dung này có thể xác định chủ thể kinh doanh với phạm vi rộng hơn và bao gồm cả chủ sở hữu doanh nghiệp. Đối tượng là tổ chức, cá nhân chỉ cần đáp ứng yếu tố thực hiện hoạt động kinh doanh thường xuyên, liên tục và sinh lãi đều có thể được đánh giá là chủ thể kinh doanh. Tuy nhiên, để được coi là chủ doanh nghiệp thì phải đáp ứng một số điều kiện pháp lý liên quan như thành lập doanh nghiệp theo quy định của pháp luật, thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2020 đối với mọi hình thức doanh nghiệp.
5. Chủ thể kinh doanh không phải đăng ký kinh doanh
Khái niệm “Chủ thể kinh doanh” không được quy định cụ thể trong các văn bản pháp luật nhưng nó là khái niệm rộng hơn khái niệm thương nhân. Một cách khái quát, chủ thể kinh doanh có thể hiểu là tất cả các cá nhân, tổ chức tham gia hoạt động kinh doanh nhằm mục đích thu lợi nhuận. Không phải mọi chủ thể kinh doanh đều phải đăng kí kinh doanh trước khi hoạt động kinh doanh bởi theo quy định tại Nghị định số 39/2007/NĐ-CP về hoạt động thương mại một cách độc lập thường xuyên không phải đăng kí kinh doanh, thì có những chủ thể tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh thường xuyên nhưng không phải đăng kí kinh doanh. Cụ thể bao gồm những cá nhân thực hiện các hoạt động thương mại sau đây: - Buôn bán rong (buôn bán dạo) là các hoạt động mua, bán không có địa điểm cố định (mua rong, bán rong hoặc vừa mua rong vừa bán rong), bao gồm cả việc nhận sách báo, tạp chí, văn hóa phẩm của các thương nhân được phép kinh doanh các sản phẩm này theo quy định của pháp luật để bán rong;
- Buôn bán vặt là hoạt động mua bán những vật dụng nhỏ lẻ có hoặc không có địa điểm cố định;
- Bán quà vặt là hoạt động bán quà bánh, đồ ăn, nước uống (hàng nước) có hoặc không có địa điểm cố định;
- Buôn chuyến là hoạt động mua hàng hóa từ nơi khác về theo từng chuyến để bán cho người mua buôn hoặc người bán lẻ;
- Thực hiện các dịch vụ: đánh giày, bán vé số, chữa khóa, sửa chữa xe, trông giữ xe, rửa xe, cắt tóc, vẽ tranh, chụp ảnh và các dịch vụ khác có hoặc không có địa điểm cố định;
- Các hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên không phải đăng ký kinh doanh khác.
- Điều kiện (dấu hiệu) trở thành chủ thể của luật doanh nghiệp
- a) Đối với cơ quan, tổ chức: Phải được thành lập hợp pháp: Cơ quan, tổ chức được coi là thành lập hợp pháp khi được cơ quan công quyền có thẩm quyền thành lập, đã được cấp giấy phép đầu tư hoặc giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Phải có tài sản riêng: Để tham gia vào các quan hệ kinh tế, tổ chức phải có tài sản riêng, đồng thời có quyền chi phối lượng tài sản đó để có thể tự chịu trách nhiệm một cách độc lập về tài sản trong hoạt động của mình. Quyền quản lý tài sản riêng của tổ chức, cá nhân thường thể hiện dưới hình thức sở hữu hoặc quản lý tài sản. Phải có thẩm quyền kinh tế: Thẩm quyền kinh tế là tổng hợp các quyền và nghĩa vụ kinh tế được pháp luật thừa nhận hoặc thừa nhận. Thẩm quyền kinh tế của chủ thể pháp luật doanh nghiệp phải luôn tương ứng với chức năng, nhiệm vụ và lĩnh vực hoạt động của chủ thể đó. Vì vậy, trên thực tế các chủ thể của luật doanh nghiệp có những quyền và nghĩa vụ cụ thể không hoàn toàn giống nhau.
- Cho cá nhân : Phải có đầy đủ năng lực hành vi dân sự Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự. Điều này có nghĩa là cá nhân đó có đủ năng lực nhận thức về hành vi của mình và phải chịu trách nhiệm về hành vi đó. Pháp luật nước ta quy định người từ đủ 18 tuổi trở lên không mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh lý khác làm mất hoặc hạn chế khả năng nhận thức hành vi thì có đầy đủ năng lực thực hiện hành vi dân sự. Có giấy phép kinh doanh và được đăng ký hoặc có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh: năng lực hành vi dân sự chỉ là điều kiện cần. Để trở thành một thực thể kinh doanh, hầu hết các cá nhân cũng phải xin giấy phép hoặc đăng ký kinh doanh (tùy thuộc vào lĩnh vực kinh doanh của họ) với các cơ quan chính phủ có liên quan. Chỉ sau khi được cấp giấy phép kinh doanh và được đăng ký, cá nhân mới có năng lực pháp luật theo quy định của pháp luật về kinh doanh, có quyền hoạt động kinh doanh và khi đó mới trở thành chủ thể của pháp luật về kinh doanh.
Nội dung bài viết:
Bình luận