Chính thể quân chủ là gì?

1. Khái niệm  hình thức chính thể quân chủ 

 Chế độ quân chủ là hình thức nhà nước trong đó người đứng đầu nhà nước (vua, quốc vương, hoàng đế) được xác lập theo nguyên tắc kế vị. 

 Chế độ quân chủ là hình thức chính phủ phổ biến của các chủ sở hữu nô lệ và các quốc gia phong kiến. 

 Chế độ quân chủ - trong đó quyền lực tập trung hoàn toàn (hoặc một phần) vào tay nguyên thủ quốc gia theo nguyên tắc kế thừa. Lại chế độ quân chủ: Chế độ quân chủ tuyệt đối, trong đó nguyên thủ quốc gia - vua, hoàng đế - có quyền lực tuyệt đối và là người chủ tinh thần của đất nước. Quân chủ chuyên chế là kiểu nhà nước phong kiến ​​- Nhà nước không có  đại diện, không có hiến pháp. Hiện nay trên thế giới, Oman và Sudan là những quốc gia đi theo mô hình này. Trong một chế độ quân chủ lập hiến (hạn chế), nguyên thủ quốc gia chỉ nắm giữ một phần quyền lực tối cao và ngoài ra còn có một cơ quan quyền lực khác như quốc hội. Theo mô hình này, nhà nước ban hành hiến pháp; nhà vua không còn quyền lực tuyệt đối, hoạt động theo nguyên tắc “vua trị vì nhưng không cai trị” - nhà vua không có thực quyền. Có hai loại quân chủ lập hiến: 

 

 1) Nhà nước quân chủ lưỡng quyền là kiểu tổ chức trong đó quyền lực nhà nước được phân chia đồng đều giữa hai cơ quan cơ bản của cơ cấu  nhà nước là quyền lực của nhà vua và quyền lực của nghị viện. Đây là mô hình tồn tại trong thời gian ngắn của cuộc cách mạng tư sản đầu tiên, trong đó các bộ trưởng  chịu trách nhiệm trước nhà vua và Nghị viện; 

  

 2) Quân chủ đại nghị là kiểu tổ chức phổ biến hiện nay ở các nước tư bản chủ nghĩa, nơi đứng đầu nhà nước là các  hoàng đế  truyền ngôi, và chính phủ - bộ máy hành pháp hoạt động miễn là có pháp quyền. Quốc hội. Các bộ trưởng  chịu trách nhiệm trước Nghị viện (hạ viện). Việc thành lập chính phủ nằm trong tay đảng chiếm đa số ghế trong hạ viện. Nhà vua hầu như không tham gia vào việc giải quyết các công việc của nhà nước. Nghị viện có quyền bãi nhiệm công chức có hàm bộ trưởng (Hiến pháp Đan Mạch, Na Uy, Bi...). Tổ chức chính thể quân chủ đại nghị ở các nước đang phát triển không hoàn toàn giống như ở các nước tư bản phát triển. Theo truyền thống lịch sử,  vua cũng có ảnh hưởng  lớn đến đời sống chính trị của nhà nước (như Thái Lan, Nepal, Malaysia...).  

 

 2. Đặc điểm hình thức chính thể quân chủ 

 Các đặc điểm của hình thức  quân chủ được thể hiện như sau: 

 

 Nguyên thủ quốc gia và cơ quan quyền lực cao nhất về mặt pháp lý  của nhà nước là vua hoặc những người có chức danh  tương tự. 

 Hầu hết các vị vua lên ngôi bằng cách thừa kế, vì vậy đây là phương pháp chính. Tuy nhiên, các  vua  lập  triều đại mới thường lên ngôi bằng các hình thức khác như bổ nhiệm, tôn thất, bầu cử, tự phong, đăng cơ, tiếm quyền, nhưng ở các triều đại sau, việc truyền  ngôi của người La Mã vẫn được duy trì và củng cố. 

 

  3. Hình thức  quân chủ 

 

 Hình thức: Căn cứ vào  quyền lực và mối quan hệ giữa  vua, quốc hội và chính phủ, hình thức  quân chủ có hai hình thức cơ bản là quân chủ tuyệt đối (tuyệt đối) và quân chủ hạn chế (tương ứng). quân chủ  (nhị nguyên) và quân chủ  nghị viện (nghị viện). 

  

  3.1 Chế độ quân chủ tuyệt đối 

 Nhà nước quân chủ chuyên chế là hình thức tổ chức nhà nước mà quyền lực nhà nước nằm hoàn toàn  trong tay nhà vua. Vua có quyền làm luật riêng, trực tiếp điều hành bộ máy hành chính và  Vua là cấp tư pháp cao nhất. Hiện nay trên thế giới có nhà nước Ả Rập, Oman vẫn  tổ chức nhà nước theo hình thức chính thể này. Ở những quốc gia không có hiến pháp, không có  cơ quan đại diện, kinh Koran được sử dụng như một tài liệu hiến pháp. Nhà vua được coi là người cha tinh thần. Nhà vua và gia đình nhà vua đóng vai trò quyết định trong các vấn đề quan trọng của quốc gia, bao gồm cả việc quyết định  ai sẽ là người  thừa kế hợp pháp ngai vàng. 

 

 3.2 Chế độ quân chủ hạn chế (còn gọi là chế độ quân chủ lập hiến) 

 Hình thức  quân chủ hạn chế được phân thành hai loại: quân chủ nhị phân và quân chủ đại nghị 

 

 * Thứ nhất: Về hình thức chính thể quân chủ lưỡng quyền: Trong hình thức chính thể này, nguyên tắc tam quyền phân lập được áp dụng ở một mức độ nào đó, tức là  có sự phân chia giữa quyền lập pháp và quyền hành pháp. Quyền lập pháp là trên danh nghĩa, nó sẽ thuộc thẩm quyền của Nghị viện, trong khi quyền hành pháp  thuộc về Nhà vua, Nhà vua có thể thực hiện trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua Chính phủ do Nhà vua thành lập. Quyền tư pháp của chế độ này  chịu sự chi phối của Nhà vua. Mặc dù nhà vua không có quyền lập pháp thay mặt nhà vua nhưng nhà vua có thể tác động trực tiếp đến quá trình lập pháp thông qua quyền phủ quyết tuyệt đối của mình. Nhà vua có quyền giải tán Quốc hội. 

 

 * Thứ hai: Chính thể quân chủ đại nghị hiện nay được xác lập ở các nước tư bản phát triển như Anh, Nhật Bản, Bỉ,.... và ở một số nước đang phát triển như Thái Lan, Campuchia,... Cơ quan này phát triển theo nguyên tắc tam quyền phân lập. quyền hạn, trong đó nguyên tắc phân chia quyền lực tối cao là của Nghị viện trước quyền hành pháp được công nhận. Nguyên tắc này đòi hỏi Chính phủ do Nhà vua thành lập phải nhận được sự tín nhiệm của Nghị viện. Nhà vua phải bổ nhiệm lãnh đạo của đảng chiếm đa số tuyệt đối số ghế trong Quốc hội (Hạ viện) làm người đứng đầu Chính phủ (Thủ tướng). Thủ tướng  có  quyền lựa chọn các thành viên của Chính phủ. Sau đó tất cả các thành viên của chính phủ được đưa ra quốc hội để bỏ phiếu tín nhiệm. Sau khi được Nghị viện bổ nhiệm, Nhà vua bổ nhiệm tất cả các thành viên của Chính phủ. Trong trường hợp không chính đảng  nào giành được đa số ghế nói trên, Nhà vua phải chỉ định người đứng đầu liên minh các đảng phái giành được đa số ghế  đứng đầu Chính phủ. 

 Dưới hình thức  quân chủ đại nghị, các quyền hạn rộng lớn của Nhà vua được Chính phủ thực hiện. Nhà vua có quyền phủ quyết các đạo luật do Nghị viện thông qua. Các văn bản do Nhà vua ban hành đều do Chính phủ soạn thảo  và các văn bản đó không có hiệu lực cho đến khi được Thủ tướng Chính phủ ký hoặc  Bộ trưởng được Thủ tướng ủy quyền ký. Khi ký, Thủ tướng hoặc Bộ trưởng  chịu trách nhiệm về nội dung  văn bản, bản thân Nhà vua không chịu  trách nhiệm. Trong chế độ  quân chủ đại nghị, chính phủ  chịu trách nhiệm trước Nghị viện (hạ viện) về các hoạt động của mình. Nếu quốc hội (hạ viện) bỏ phiếu chống lại chính phủ, chính phủ phải từ chức hoặc nhà vua phải cách chức tất cả các thành viên của chính phủ. Tuy nhiên, người đứng đầu chính phủ có quyền yêu cầu nhà vua giải tán hạ nghị viện và chỉ định một cuộc bầu cử mới. Và cuối cùng, mâu thuẫn giữa  hành pháp và lập pháp được giải quyết bởi người dân. Trong các cuộc bầu cử sớm, nếu người dân ủng hộ quốc hội, đảng đối lập sẽ giành được đa số ghế trong quốc hội mới. Khi đó chính phủ cũ phải từ chức, nếu người dân ủng hộ chính phủ thì đảng cầm quyền (hoặc liên minh đảng cầm quyền) sẽ tiếp tục nắm đa số ghế trong quốc hội.

 

Nội dung bài viết:

    Hãy để lại thông tin để được tư vấn

    comment-blank-solid Bình luận

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo