1. Định nghĩa thuế
Tài khóa là một chu kỳ trong khoảng thời gian 42 tháng, có giá trị đối với các báo cáo dự toán và quyết toán hàng năm của ngân sách nhà nước cũng như các công ty.
Năm tài chính cũng là thời điểm tính thuế hàng năm nên tùy theo quy định của mỗi quốc gia hoặc tùy theo nhu cầu hoạt động của các công ty mà năm tài chính có thể trùng với năm dương lịch hoặc khác với năm dương lịch. Bình thường. . Ví dụ, ở Hoa Kỳ, hầu hết các doanh nghiệp chọn năm tài chính trùng với năm dương lịch, nhưng đối với tất cả các cửa hàng bách hóa, năm tài chính bắt đầu từ ngày 1 tháng 2 năm trước đến ngày 31 tháng 1 năm sau, hoặc đặc biệt đối với một tỷ đồng, năm tài chính bắt đầu từ ngày 01 tháng 7 đến ngày 31 tháng 6 năm sau. Ở một số quốc gia khác như Anh (theo Đạo luật Tài chính năm 1854), năm tính thuế tính từ ngày 1 tháng 4 năm trước đến ngày 31 tháng 3 năm sau. Tuy nhiên, để tiểu bang áp thuế thu nhập hoặc thuế vốn, thời hạn này thường được kéo dài thêm 5 ngày, tức là đến ngày 5 tháng 4 của năm sau.
2. Tổng quan về chính sách tài khóa
Chính sách tài khóa là một công cụ chính sách kinh tế vĩ mô tác động đến quy mô của hoạt động kinh tế thông qua những thay đổi trong chi tiêu chính phủ và/hoặc thuế.
Vào những năm 1930, Keynes lập luận rằng chính phủ cần tăng chi tiêu và sẵn sàng chấp nhận thâm hụt ngân sách để chuyển nền kinh tế từ thất nghiệp tràn lan sang gần đầy đủ việc làm.
Về mặt lý thuyết, chính sách tăng chi tiêu hoặc giảm thuế làm tăng tổng cầu thông qua hiệu ứng death tag, từ đó tạo ra nhiều việc làm hơn để đáp ứng tổng cầu gia tăng và tăng thu nhập quốc gia từ Y* đến Y1 (như trong hình bên dưới). Nếu mức độ hoạt động kinh tế quá cao hoặc nền kinh tế quá nóng, chính phủ có thể cắt giảm chi tiêu hoặc tăng thuế để giảm tổng cầu.
Mục tiêu chính của chính sách tài khóa là giảm mức độ biến động của sản lượng trong chu kỳ kinh doanh. Mục tiêu này khiến người ta nghĩ rằng chính phủ phải điều chỉnh hoạt động của nền kinh tế.
Nhiều nhà kinh tế lập luận rằng chính sách tài khóa không phải là liều thuốc có thể chữa khỏi mọi căn bệnh kinh tế. Họ lập luận rằng nó chỉ phù hợp với tình trạng suy thoái đã tồn tại khi Keynes viết lý thuyết tổng quát về việc làm, lãi suất và tiền tệ vào năm 1936, chứ không phù hợp với một nền kinh tế lạm phát. Vì vậy, vào cuối những năm 1970, khi lạm phát và suy thoái kinh tế ập đến, chính sách tài khóa không còn được ưa chuộng như trước. Người dân bắt đầu tin tưởng vào hiệu quả của chính sách tiền tệ trong việc đạt được các mục tiêu kinh tế vĩ mô.
Hiện nay, các nhà kinh tế tranh luận rất nhiều về các chính sách hiệu quả nhất để điều chỉnh nền kinh tế.
3. Các công cụ chính sách tài khóa
Trong chính sách tài khóa, hai công cụ chính được sử dụng là chi tiêu chính phủ và thuế. Trong đó:
Thứ nhất: chi tiêu công
Hoạt động chi tiêu công sẽ bao gồm hai loại: chi tiêu cho hàng hóa và dịch vụ và chi tiêu cho chuyển nhượng. Đặc biệt:
- Chi mua hàng hóa và dịch vụ: tức là chính phủ sử dụng ngân sách để mua vũ khí và thiết bị, xây dựng cầu đường và các công trình cơ sở hạ tầng, trả lương cho cán bộ công chức Nhà nước. .
Chi tiêu của chính phủ cho hàng hóa và dịch vụ quyết định quy mô tương đối của khu vực công trong tổng sản phẩm quốc nội - GDP so với khu vực tư nhân. Khi chính phủ tăng hoặc giảm chi tiêu cho hàng hóa và dịch vụ, nó sẽ có tác động cấp số nhân đối với tổng cầu. Nghĩa là, nếu chi tiêu chính phủ tăng một đô la, tổng cầu sẽ tăng hơn một đô la và ngược lại, nếu chi tiêu chính phủ giảm một đô la, tổng cầu sẽ giảm với tốc độ nhanh hơn. . Vì vậy, chi mua hàng được coi là công cụ điều tiết tổng cầu.
- Chi chuyển giao: Chính phủ trợ cấp cho các đối tượng chính sách như người nghèo hoặc các nhóm dễ bị tổn thương khác trong xã hội.
Chi tiêu chuyển nhượng có tác động gián tiếp đến tổng cầu bằng cách ảnh hưởng đến thu nhập và tiêu dùng cá nhân. Như vậy, khi chính phủ tăng chi chuyển nhượng, tiêu dùng tư nhân tăng. Và nhờ số nhân tiêu dùng cá nhân sẽ làm tăng tổng cầu. Thứ hai: Thuế
Có rất nhiều loại thuế khác nhau như thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân, thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế tài sản,… nhưng về cơ bản thuế được chia thành hai loại:
Thuế trực thu là loại thuế đánh trực tiếp vào tài sản và/hoặc thu nhập của người dân.
Thuế gián thu là loại thuế đánh vào giá trị hàng hóa, dịch vụ trong lưu thông thông qua hành vi sản xuất và tiêu dùng của nền kinh tế.
Trong một nền kinh tế nói chung, thuế sẽ có tác động theo hai cách. Kết quả là:
Đầu tiên là không giống như chi tiêu chuyển giao, thuế làm giảm thu nhập khả dụng của một cá nhân, do đó dẫn đến giảm chi tiêu của cá nhân đối với hàng hóa và dịch vụ. Điều này dẫn đến suy giảm tổng cầu và GDP.
Thứ hai: thuế làm “bóp méo” giá cả hàng hóa và dịch vụ, do đó ảnh hưởng đến hành vi và động cơ của các cá nhân.
4. Vai trò của chính sách tài khóa trong kinh tế vĩ mô
Trong kinh tế vĩ mô, chính sách tài khóa có vai trò và ý nghĩa hết sức quan trọng.
- Trong kinh tế vĩ mô, chính sách tài khóa là công cụ giúp chính phủ điều tiết nền kinh tế, thông qua chi tiêu và chính sách tài khóa.
Trong điều kiện bình thường, chính sách tài khóa được sử dụng để tác động đến tăng trưởng kinh tế
Tuy nhiên, trong thời điểm nền kinh tế đang có dấu hiệu suy thoái (hoặc phát triển quá mức), chính sách tài khóa lại trở thành công cụ được sử dụng để đưa nền kinh tế trở lại trạng thái cân bằng.
Về mặt lý thuyết, chính sách tài khóa là một công cụ để sửa chữa những thất bại của thị trường. Phân bổ hiệu quả các nguồn lực trong nền kinh tế thông qua thực hiện hiệu quả chi tiêu công và chính sách tài khóa. - Các giới hạn của chính sách tài khóa trong kinh tế vĩ mô:
Chính sách tài khóa được ban hành và thực thi muộn hơn so với diễn biến của thị trường tài chính, chính phủ cần thu thập số liệu báo cáo trong một khoảng thời gian nhất định, sau đó tổng hợp số liệu thống kê làm cơ sở để đưa ra các quyết định chiến lược, quyết sách.
Sau khi chính sách được ban hành: phải mất một thời gian để đến được với người dân và đối tượng thụ hưởng.
- Khi áp dụng chính sách tài khoá thường gặp các hạn chế sau:
Khó đo lường mức độ ảnh hưởng của chính sách tài khóa
Khi có thể ước tính được mức độ tác động của chính sách tài khóa, thước đo này cũng đã lỗi thời so với tình hình tài chính hiện tại của đất nước. Điều này dẫn đến kết quả khác với kết quả mong muốn, nhiệm vụ ban đầu và mục đích của chính sách tài khóa.
- Khi nền kinh tế rơi vào suy thoái, tức là sản lượng của nền kinh tế thấp hơn dự kiến, tỷ lệ thất nghiệp tăng, ngân sách phải chi bù đắp cho các dịch vụ công tăng, tỷ lệ thất nghiệp, nợ xấu tăng. Bội chi ngân sách ngày càng tăng do nợ công, trả lương cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức ngành giáo dục, y tế... trong khi vẫn giữ nguyên mục tiêu ngân sách xã hội (mặc dù thực tế là nhu cầu về ngân sách nhà nước không thay đổi). nhu cầu xã hội ít hơn so với trước đây).
- Tăng chi hay giảm chi ngân sách luôn là vấn đề làm đau đầu các nhà hoạch định chính sách nhà nước.
- Tăng giảm chi ngân sách luôn là nhiệm vụ khó khăn vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của người dân, người hưởng lợi, người hưu trí, học sinh sinh viên và các tầng lớp nhạy cảm khác.
5. Tài chính công là gì?
Tài chính công là tổng thể các hoạt động thu, chi sử dụng tiền của nhà nước thực hiện. Tài chính công phản ánh hệ thống các quan hệ kinh tế phát sinh từ quá trình tạo lập và sử dụng các quỹ công. Mục đích là để phục vụ cho việc thực hiện các chức năng của nhà nước. đồng thời đáp ứng nhu cầu, lợi ích chung của toàn xã hội.
Ngân sách nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong tài chính công. Nguồn thu ngân sách nhà nước đến từ tất cả các lĩnh vực kinh tế - xã hội khác nhau, trong đó thuế là nguồn thu chủ yếu. Các khoản chi ngân sách nhà nước nhằm duy trì sự tồn tại của bộ máy nhà nước và phục vụ cho việc thực hiện các chức năng của nhà nước.
6. Nội dung tài chính công
Ngân sách nhà nước được chia thành cấp ngân sách trung ương và cấp ngân sách địa phương. Ngân sách nhà nước được sử dụng vào các lĩnh vực và mục đích khác nhau, nhằm mục tiêu phát triển kinh tế, văn hóa, giáo dục, y tế, an ninh, xã hội và quốc phòng. Tín dụng chính phủ bao gồm các hoạt động đi vay và cho vay của chính phủ. Tín dụng nhà nước được sử dụng để hỗ trợ ngân sách nhà nước trong những trường hợp cần thiết. Nhà nước huy động các nguồn tài chính tạm thời của pháp nhân, thể nhân của xã hội nhằm đáp ứng nhu cầu về nguồn lực nhà nước trong việc thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội. Nhà nước tham gia hoạt động vay nợ thông qua phát hành trái phiếu chính phủ: phát hành tín phiếu kho bạc chính phủ; Trái phiếu Kho bạc Nhà nước; trái phiếu xây dựng; trái phiếu đô thị; liên kết quốc gia.
Nội dung bài viết:
Bình luận