Giai đoạn từ những năm 1950 đến 1960 của thế kỷ trước là giai đoạn các nước ASEAN từng bước giành độc lập, trừ Singapore giành độc lập năm 1965, Việt Nam mất đến năm 1975 mới thống nhất đất nước và Brunei năm 1984 mới chính thức độc lập. Các nền kinh tế của khu vực này đều có đặc điểm chung là phát triển từ một nền kinh tế lạc hậu do chế độ thực dân để lại. Hầu như tất cả các nước ở Đông Nam Á đều bị người phương Tây định cư làm thuộc địa (trừ Thái Lan) nên nền kinh tế chủ yếu dựa vào nền nông nghiệp cực kỳ lạc hậu, công nghiệp chủ yếu là khai khoáng từ thời thuộc địa, thương mại bị phụ thuộc vào các nước lớn. Vì vậy, ngay sau khi giành được độc lập, các nước ASEAN đều ưu tiên phát triển theo “Chiến lược công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu”.
Đây cũng là chiến lược mà các nước đang phát triển khác theo đuổi vào thời điểm đó với mục tiêu chính:
- Xây dựng nền kinh tế tự cung tự cấp với các ngành công nghiệp truyền thống thay thế hàng hoá trước đây phải nhập khẩu.
- Giảm sự phụ thuộc vào bên ngoài, chủ yếu là các nước lớn.
- Giảm chi phí hậu cần.
- Tạo thêm việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp, từ đó xóa bỏ tệ nạn trong nước.
Để thực hiện “Chiến lược công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu” các nước ASEAN đã thực hiện chính sách:
- Chú trọng phát triển các ngành sản xuất trong nước có khả năng thay thế hàng nhập khẩu thông qua các chính sách hỗ trợ, trợ cấp.
- Quốc hữu hóa một số ngành quan trọng. Như ở Việt Nam chúng ta theo mô hình “kinh tế tập trung” nên hầu hết các hoạt động kinh tế đều do doanh nghiệp nhà nước kiểm soát.
Và với những khó khăn chồng chất đó, trong suốt những năm 50, 60 của thế kỷ trước, nền kinh tế các nước ASEAN phát triển rất chậm, phần lớn các nước còn ở tình trạng kém phát triển, nền kinh tế chủ yếu vẫn dựa vào một nền nông nghiệp lạc hậu, thậm chí nếu nó được định hướng theo hướng phát triển công nghiệp. Nguyên nhân chủ yếu là do “chiến lược công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu” có những nhược điểm cơ bản sau:
- Các ngành công nghiệp hầu hết kém hiệu quả do được bảo hộ và bao cấp quá mức, dẫn đến tình trạng quan liêu, không tận dụng được lợi thế cạnh tranh. Vì vậy, ở giai đoạn này, các ngành công nghiệp của các nước vẫn chủ yếu là khai khoáng.
- Công nghệ sản xuất hết sức lạc hậu, giá thành cao, khó cạnh tranh với hàng ngoại. Ngay cả một số nước có nền kinh tế “mở” như Singapore, Malaysia, Philippines tăng trưởng chủ yếu nhờ hoạt động thương mại, hàng công nghiệp vẫn phải nhập khẩu từ các nước phát triển. Hay ngay cả ở những nước phát triển theo mô hình kinh tế tập trung như miền Bắc Việt Nam, dù có đặt mục tiêu cũng không đáp ứng được nhu cầu trong nước do không đủ tiềm lực phát triển công nghiệp.
- Quy mô thị trường trong nước còn nhỏ, sản phẩm sản xuất ra khó tiêu thụ. Phần lớn người dân các nước ASEAN lúc bấy giờ còn khá nghèo, chủ yếu lo mưu sinh qua ngày, khó có đủ tiền để tiêu dùng hàng tiêu dùng.
- Các cơ sở kinh tế nhà nước có tệ tham nhũng, quan liêu, hoạt động kém hiệu quả do thiếu vốn, thiếu nguyên liệu, công nghệ và kinh nghiệm quản lý yếu kém.
Với những yếu kém như vậy, việc thực hiện “Chiến lược công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu” càng làm trầm trọng thêm tình trạng kém phát triển ở các nước ASEAN. Đời sống nghề khó khăn, người dân thậm chí còn không đủ ăn, đủ mặc. Lạm phát cao ngất ngưởng, nợ nước ngoài ngày càng lớn và ngày càng phụ thuộc vào sự trợ giúp từ các đại gia toàn cầu. Mức sống của người dân chưa được cải thiện nên thị trường tiêu dùng trong nước chưa được mở rộng, thậm chí còn bị thu hẹp. Điều này dẫn đến nhiều doanh nghiệp phá sản vì không có thị trường tiêu thụ. Tuy thất bại nhưng “Chiến lược công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu” giai đoạn này cũng là bài học kinh nghiệm để các nước trong khu vực ASEAN xây dựng chính sách phát triển kinh tế tiến bộ hơn trong tương lai.
Nội dung bài viết:
Bình luận