Chiếm dụng vốn ngân hàng

I.Tình hình sau giai đoạn dịch năm 2021

Sau giai đoạn bùng nổ và tiếp tục  tăng trưởng trong  năm 2020 và 2021, hoạt động phát hành trái phiếu doanh nghiệp, đặc biệt là ở khu vực phi ngân hàng, đã trầm lắng kể từ tháng 4/2022. Nguyên nhân chủ yếu đến từ  rủi ro đầu tư và rủi ro pháp lý bộc lộ trong một số trường hợp sau giai đoạn phát triển nóng, cũng như hướng siết chặt hệ thống pháp luật (đặc biệt trong việc sửa đổi Nghị định 153 về phát hành trái phiếu doanh nghiệp). 

 Theo số liệu của Hiệp hội Thị trường trái phiếu Việt Nam (VBMA), trong tháng 8/2022, có 26 đợt phát hành trái phiếu doanh nghiệp  riêng lẻ trị giá 13,93 nghìn tỷ đồng và 1 khoản phát hành trái phiếu chính phủ trị giá 300 tỷ đồng. 

  Tuy nhiên,  chủ yếu là trái phiếu  ngân hàng thương mại; các lĩnh vực khác  khá hạn chế, chỉ có 2 đợt phát hành từ nhóm bất động sản là CTCP Thực phẩm Fuji Nutri  và CTCP Đầu tư Kinh doanh Nhà Khang Điền với tổng giá trị phát hành là 1,8 nghìn tỷ đồng. 

 Luỹ kế 8 tháng, thị trường trái phiếu doanh nghiệp ghi nhận 2 đợt phát hành  quốc tế trị giá 625 triệu USD và 18 đợt phát hành trái phiếu doanh nghiệp ra công chúng và 344 đợt phát hành riêng lẻ với tổng giá trị 220,596 tỷ đồng.  Như vậy, giá trị trái phiếu phát hành  ra công chúng trong kỳ giảm gần 20% so với cùng kỳ năm trước; trong khi giá trị trái phiếu phát hành  riêng lẻ giảm  40% so với cùng kỳ. 

  Trong khi đó, ước tính đến cuối năm 2022, tổng dư nợ trái phiếu kỳ hạn khoảng 84 nghìn tỷ đồng và  năm sau là 140 nghìn tỷ đồng.  

 Trong bối cảnh huy động  vốn từ  phát hành trái phiếu sụt giảm và khó tiếp cận tín dụng từ ngân hàng, các công ty buộc phải tìm  cách khác để có  tiền trang trải, trong đó việc chiếm dụng vốn từ công ty khác được coi là giải pháp tình thế. 

 Phát biểu tại tọa đàm "Mục tiêu phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp - Niềm tin và trách nhiệm" do BizLIVE tổ chức sáng 13/9, TS Lê Xuân Nghĩa, Thành viên Hội đồng tư vấn chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia cho rằng, tình trạng  doanh nghiệp lấy vốn của nhau là "khủng khiếp". “Qua trao đổi, tôi thấy có DN nói thu nhập 1 nghìn tỷ đồng có khi biển thủ 700 tỷ đồng vốn. Trong khó khăn, một số DN coi việc chiếm dụng vốn là một trong những biện pháp.  vốn của doanh nhân trong 6 tháng rồi tìm cách phát hành trái phiếu mới”, ông Nghĩa nói. 

 

chiếm dụng vốn ngân hàng

chiếm dụng vốn ngân hàng

 

 Khó xoay nguồn tiền, một số DN xem sở hữu vốn là giải pháp tình thế 

2.Nhìn vào thực tế

 Trên thực tế, việc sở hữu vốn lẫn nhau  diễn ra khá phổ biến, nhất là trong lĩnh vực xây dựng và bất động sản. Nhìn vào kết quả kinh doanh và dòng tiền của một số công ty xây dựng lớn đã niêm yết  như Coteccons,  Hòa Bình Construction…, chúng ta thấy nguồn vốn được phân bổ dưới nhiều tên gọi khác nhau như “phải thu khách hàng”, “trả trước cho người bán », hay « các khoản nợ khi công việc tiến triển »… tăng lên đáng kể.  

 Số liệu của Hiệp hội  Nhà thầu xây dựng Việt Nam (VACC) cũng cho thấy, trong số 2.000 DN xây dựng trên cả nước, 90% là DN vừa và nhỏ, quy mô vốn  dưới 100 tỷ đồng. Các công ty lớn trong ngành cũng chỉ phổ biến quy mô vốn từ 500 đến 1 nghìn tỷ đô la. Chưa đến 10 công ty có vốn trên 1.000 tỷ. Tuy nhiên, điểm chung là DN xây dựng nào cũng có nợ đọng, ít thì 30-50 tỷ đồng,  có khi lên đến vài nghìn tỷ đồng.  

 Ông Nguyễn Quốc Hiệp, Chủ tịch VACC, cho biết khi  vốn eo hẹp, nợ nần chồng chất, DN xây dựng phải vay ngân hàng để trang trải xây dựng với lãi suất thông thường khoảng 9 - 10%/năm. hàng  tỷ đồng nhưng lợi nhuận chỉ vài chục tỷ, thậm chí âm. 

 Theo ông Hiệp, hiện 100% DN xây dựng đều có nợ đọng. Thậm chí, có những DN nợ phải thu vượt quá vốn chủ sở hữu như Tổng công ty Xây dựng Trường Sơn, vốn  đăng ký 800 tỷ đồng nhưng tính đến 31/3/2022, tổng số  phải thu đến hạn của Công ty không cao. tỷ đồng.  Hay Tổng công ty Lắp máy Việt Nam (LILAMA),  đến cuối tháng 6/2022, vốn chủ sở hữu là 1.078 tỷ đồng nhưng cũng  nợ  hơn 3.600 tỷ đồng và phải trích lập dự phòng  khó đòi gần 1.190 tỷ đồng. . 

 Đáng chú ý, tình trạng chiếm dụng vốn không chỉ xảy ra giữa các đối tác với công ty xây dựng mà số liệu của VACC còn cho thấy có ít nhất 20-30% công ty xây dựng mắc nợ lẫn nhau. 

  Tại một cuộc hội thảo hồi cuối tháng 8, TS Cấn Văn Lực, thành viên Hội đồng tư vấn chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia cho biết, số tiền  doanh nghiệp bất động sản, xây  lắp  nợ  nhau lên tới 60 nghìn tỷ đồng. Cùng với hàng tồn kho tăng cao, nợ  lẫn nhau cũng  là nguyên nhân khiến dòng tiền chậm lại.  “Trước đây, khung thời gian gia hạn nợ giữa các công ty cho nhau là 45 ngày. Tuy nhiên, thời gian gần đây, một số DN kéo dài thời hạn vay từ 45 ngày lên 90 ngày nhưng vẫn không trả nợ đúng hạn”, TS Cấn Văn Lực nói và cho rằng hiện tượng “ngậm vốn” tại DN đang là vấn đề nhức nhối hiện nay. 

  Cũng theo vị chuyên gia này, việc DN hiện nay thi nhau nợ nần, trả nợ không đúng hạn một phần là hệ quả của việc DN khó tiếp cận các nguồn vốn khác, nhất là khi chưa có kênh huy động  tín dụng. " và thị trường trái phiếu  thắt chặt sau sự cố liên quan đến trái phiếu do Tân Hoàng Minh phát hành



Nội dung bài viết:

    Hãy để lại thông tin để được tư vấn

    comment-blank-solid Bình luận

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo