Nền quân chủ lập hiến ở Pháp đã được thiết lập như thế nào?

chế độ quân chủ lập hiến ở pháp
chế độ quân chủ lập hiến ở pháp

Cộng hòa Pháp là quốc gia có lịch sử lâu đời với truyền thống văn hóa, khoa học, chính trị và luật pháp  đáng tự hào. Pháp cũng là một quốc gia có lịch sử lập hiến đầy biến động và phức tạp  nhất  thế giới với hàng loạt  biến cố chính trị trong  hơn 200 năm qua:  5 cuộc cách mạng, 2 đế chế, 2 lần phục hồi, v.v. quân chủ, 5 nước cộng hòa. Kể từ sau cuộc Đại cách mạng  1789, lịch sử lập hiến của Cộng hòa Pháp đã trải qua 12 chế độ chính trị với 16  Hiến pháp và các đạo luật hiến pháp quan trọng khác, tiêu biểu như sau: 

 

 Hiến pháp ngày 3 tháng 9 năm 1791 thiết lập chế độ quân chủ lập hiến và hệ thống đại diện dựa trên chủ quyền quốc gia, sự phân chia quyền lực giữa nhà vua - người đứng đầu cơ quan hành pháp và  Quốc hội được thiết lập  theo thuế suất, thời hạn một năm . Hiến pháp này kéo dài 1 năm.  

 Hiến pháp ngày 24 tháng 6 năm 1793 được thông qua  trưng cầu dân ý, đánh dấu sự ra đời của nền Đệ nhất Cộng hòa, dựa trên chủ quyền nhân dân thể hiện bằng việc thành lập  Nghị viện thống nhất và một Hội đồng hành pháp gồm 24 thành viên, hoàn toàn phụ thuộc  vào Nghị viện.  Hiến pháp này không có giá trị thi hành.  

 Hiến pháp ngày 22 tháng 8 năm 1795 thiết lập một nền cộng hòa đại diện, dựa trên chủ quyền quốc gia, sự chia sẻ quyền lực giữa hai Hội đồng (Hội đồng Thượng nghị sĩ và Hội đồng Năm trăm) và một cơ quan hành pháp gồm 5 thành viên. Hiến pháp này kéo dài 4 năm.  

 Hiến pháp ngày 15 tháng 12 năm 1799 thiết lập một nền cộng hòa dựa trên chủ quyền quốc gia với  cơ cấu quyền lực: 3 Quan chấp chính và 4 Hội đồng (Hội đồng Nhà nước, Viện Lập pháp, Thượng viện, Phòng Pháp luật). Hiến pháp này kéo dài 3 năm. Hiến pháp ngày 8 tháng 8 năm 1802 thiết lập chức vụ Quan chấp chính suốt đời cho Đệ nhất quan chấp chính (Napoleon Bonaparte), củng cố quyền lực của Viện nguyên lão, giảm bớt quyền lực của Phòng pháp luật. Hiến pháp này kéo dài 2 năm. 

 Hiến pháp ngày 18 tháng 5 năm 1804 thiết lập một loạt các chức năng cho Hoàng đế Napoléon Bonaparte. Hiến pháp này kéo dài 10 năm.  

 Hiến pháp ngày 6 tháng 4 năm 1814 được Viện nguyên lão Đế quốc thông qua[2] khôi phục chế độ quân chủ và phổ thông đầu phiếu nhưng bị vua Louis XVIII bác bỏ nên không được áp dụng.  Hiến pháp ngày 4 tháng 6 năm 1814 do Vua Louis XVIII ban hành đã tái lập chủ quyền của quốc vương trong chế độ quân chủ lập hiến với một Nghị viện được bầu  trên cơ sở tài chính bao gồm hai viện (Thượng  viện và Hạ nghị viện). Hiến pháp có hiệu lực trong 16 năm (không kể thời kỳ "trăm ngày"). 

 Hiến pháp ngày 22 tháng 4 năm 1815 được ban hành vào thời điểm “Trăm ngày” dựa trên chủ quyền quốc gia và  phổ thông đầu phiếu; và thiết lập một hệ thống lưỡng viện và quyền hành pháp. Hiến pháp này kéo dài 21 ngày.  

 Hiến pháp ngày 14 tháng 8 năm 1830 thiết lập chế độ quân chủ đại diện (vua của người dân Pháp thay vì vua của nước Pháp), dựa trên chủ quyền quốc gia và hệ thống nghị viện lưỡng viện. Hiến pháp này kéo dài 18 năm.  

 Hiến pháp ngày 4 tháng 11 năm 1848 thành lập  nền Cộng hòa thứ hai, thiết lập một hệ thống đại diện dựa trên hai trụ cột (chủ quyền nhân dân và chủ quyền quốc gia) và sự phân chia quyền lực giữa Tổng thống (được thành lập theo nguyên tắc phổ thông đầu phiếu, nhiệm kỳ 4 năm) với một Hội đồng Lập pháp (được thành lập theo phổ thông đầu phiếu, nhiệm kỳ 3 năm). Hiến pháp này kéo dài 3 năm.  

 Hiến pháp ngày 14 tháng 1 năm 1852 thiết lập một nền cộng hòa chuyên chế dựa trên học thuyết  dân chủ của Caesar, bao gồm 2 hội đồng được chỉ định và 1 hội đồng được bầu. Trong thời kỳ Hiến pháp này có hiệu lực, Đế chế (thứ hai) đã được khôi phục. Hiến pháp này kéo dài 18 năm.  

 Hiến pháp ngày 21 tháng 5 năm 1870 thành lập một đế chế  nghị viện kiểu Orleans với hai quyền hành pháp. Hiến pháp này kéo dài 4 tháng. 

  Ba Đạo luật Hiến pháp ngày 24 tháng 2, 25 tháng 2 và 16 tháng 7 năm 1875 đánh dấu sự ra đời của nền Cộng hòa thứ ba; đồng thời, thiết lập chế độ  nghị viện dựa trên chủ quyền quốc gia với một Tổng thống vô trách nhiệm và có  quyền hạn lớn về mặt lý thuyết (giải tán Hạ  viện, thành lập Chính phủ), do các quan chức dân cử có nhiệm kỳ 7 năm thành lập; Hạ  viện được bầu bằng phổ thông đầu phiếu trực tiếp và Thượng  viện được bầu bằng phổ thông đầu phiếu gián tiếp. Vai trò của nhà lập pháp được nhấn mạnh. Dưới thời Đệ tam Cộng hòa (1870-1940) không có văn bản nào  gọi là Hiến pháp nên có thể coi 3 đạo luật trên là Hiến pháp của thời kỳ đó. Hiến pháp kéo dài 65 năm. 

  Đạo luật hiến pháp ngày 10 tháng 7 năm 1940 thiết lập chế độ độc tài của Nguyên thủ quốc gia, trao cho Thống chế Pétain - Nguyên thủ quốc gia, quyền lực hiến định của riêng mình, nắm giữ mọi quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Trong thời gian này (4 năm), Thống chế Pétain đã thông qua một số văn bản hiến pháp, khẩu hiệu “Tự do - Bình đẳng - Bác ái” của Đại cách mạng 1789 được thay thế bằng khẩu hiệu “Việc làm - Gia đình - Gia đình - Tổ quốc”. 

 Luật Hiến pháp ngày 2 tháng 11 năm 1945 ("Hiến pháp nhỏ") thiết lập chế độ lâm thời của quốc gia cho đến khi  một Hiến pháp chính thức, được thông qua  trưng cầu dân ý, ban hành quy định của luật tiểu bang. Hội đồng này cử tướng De Gaulle làm người đứng đầu chính phủ.

 

Nội dung bài viết:

    Hãy để lại thông tin để được tư vấn

    comment-blank-solid Bình luận

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo