Trong các nghiên cứu công bố mấy chục năm gần đây, một số học giả Việt Nam suy đoán rằng thời Đông Sơn, người Việt còn theo chế độ mẫu hệ, văn hóa Việt Nam lúc bấy giờ cũng vậy, vẫn còn trong xã hội sơ khai, chưa văn minh và kém phát triển. . Giả thuyết này xuất phát từ thuyết bản địa, theo đó một số học giả Việt Nam cho rằng người Việt tiến hóa từ nền văn hóa sơ khai ở Việt Nam, tuy nhiên, người Việt không phải là người bản địa. trực tiếp từ vùng Dương Tử, cư dân Dương Tử cũng di cư từ Đông Nam Á, [1] cho rằng “nguồn gốc bản địa” của người Việt sẽ gây ra những vấn đề khó tìm được lời giải thích hợp lý.

Vì vậy, chúng ta phải nghiên cứu các thông tin từ vùng Dương Tử, kết hợp với các tài liệu ở Việt Nam để xác định chế độ xã hội thời kỳ này, không thể dựa vào các tài liệu khảo cổ học thời tiền sử Việt Nam. Phùng Nguyên để khẳng định chế độ ăn uống và tổ chức xã hội của người Việt trong văn hóa Phùng Nguyên và các văn hóa tiếp theo. Những bằng chứng khảo cổ và lịch sử cho chúng ta thấy, vào thời Hùng Vương, người Việt đã theo chế độ phụ hệ từ rất sớm, vấn đề này sẽ được chúng tôi tìm hiểu trong bài viết này.
1. Xã hội mẫu hệ và phụ hệ:
Đặc trưng của chế độ mẫu hệ là chế độ cộng đồng, hôn nhân, trong mộ nhiều người chôn chung một mộ. Các xã hội cổ đại Đông Á trước 5000-6000 năm cách ngày nay đa số theo chế độ mẫu hệ trong đó người phụ nữ đóng vai trò quan trọng trong tổ chức và quản lý xã hội. Trong xã hội mẫu hệ, các thành viên trong gia đình cùng chung sống trong một ngôi nhà chung, các ngôi nhà thường có diện tích tương đương nhau, khi chết cộng đồng mẫu hệ có nghĩa địa chung, mỗi dòng tộc, kể cả khi người đàn ông đã lấy vợ ngoài tộc, khi chết, vẫn phải được chôn cất trong nghĩa trang gia tộc. Tài sản trong xã hội mẫu hệ là tài sản chung, tài sản được truyền từ mẹ sang con gái, đàn ông ít quyền và không có quyền tài sản.
Xã hội phụ quyền bắt đầu khi hoạt động sản xuất chuyển dịch, hoạt động săn bắn hái lượm suy giảm, hoạt động kinh tế chuyển dần sang nông nghiệp, chăn nuôi quy mô lớn và nam giới đóng vai trò quan trọng. Càng trở nên quan trọng trong tổ chức xã hội, hình thức một vợ một chồng bắt đầu xuất hiện, vợ theo chồng về nhà chồng, con cái ở với bố mẹ và gia đình chồng, thay vì ở với mẹ và không ở với gia đình chồng. gia đình chồng. tìm ra cha nó là ai. Khi người chồng chết, người chồng được chôn cùng vợ, những người trong gia đình tộc trưởng được chôn cùng nhau. Xã hội phụ hệ tạo ra giá trị kinh tế cao hơn nhiều so với xã hội mẫu hệ, nam giới đóng vai trò tổ chức và điều hành xã hội, các hoạt động kinh tế, chính trị, tinh thần đều do nam giới kiểm soát. Sự phát triển của cải tạo điều kiện cho sự hình thành các giai cấp, với sự chiếm hữu của cải của một bộ phận nhất định trong xã hội, dần dần thoát khỏi chế độ thị tộc, tiến tới chế độ phụ quyền và xã hội có nhà nước, văn minh.
Các xã hội tiền Việt Dương Tử như Đại Khê, Hà Mẫu Độ là những nền văn hóa còn theo chế độ mẫu hệ, riêng Hà Mẫu Độ là xã hội mẫu hệ, đến thời Lương Chử, công xã các bộ tộc Việt đã sớm chuyển sang chế độ phụ quyền.
2. Tổ phụ ở giữa Dương Tử:
Theo các tài liệu khảo cổ học, vùng Trung Dương Tử cùng với thành phố cổ Toushan City thuộc các thời kỳ văn hóa Đại Khê (Daxi, 5000 - 3300 TCN), Khuất Gia Lĩnh (Qujialing, 3000 - 2600 TCN. Nghe nói). ) và văn hóa Thạch Gia Hà (Shijiahe, 2500 – 2000 TCN), được chứng minh là nơi xuất hiện chế độ phụ hệ sớm nhất. Vùng Trung Dương Tử, nơi có hồ Động Đình, là nguồn gốc trực tiếp của tộc Việt Nam Á, bao gồm trực tiếp hơn là người Việt Nam hiện nay.
◊ Sự xuất hiện chế độ một vợ một chồng và chế độ phụ hệ:
Gia đình một vợ một chồng cũng là một biểu hiện quan trọng của một xã hội đang tiến tới một trình độ phát triển và phân chia cao. Đặc điểm nổi bật của xã hội mẫu hệ là các ngôi mộ hầu hết được chia cho nam và nữ trưởng thành (nghĩa là chôn cất đồng giới hoặc riêng biệt), với một ngôi mộ thường chôn nhiều người. Khi hệ thống gia đình phụ hệ được phát triển, vợ và chồng của gia đình phụ hệ được chôn chung trong một ngôi mộ tương tự như cách chôn cất vẫn còn hiện nay trong văn hóa Việt Nam và các dân tộc khác theo hệ thống phụ hệ. . [2]
Trong thời kỳ văn hóa Đại Khê, người ta tìm thấy rất ít mộ chôn người lớn đồng tính luyến ái, về cơ bản văn hóa này không có nhiều mộ chôn nhiều người trong cùng một mộ, chứng tỏ chế độ xã hội của văn hóa này đã siêu thoát mẫu hệ. Bên cạnh đó, trong văn hóa Đại Khê còn có nhiều ngôi nhà thể hiện chế độ một vợ một chồng. Hầu hết các nhà văn hóa Đại Khê đều là nhà đơn lập, chia làm lớn, vừa và nhỏ, diện tích khoảng 20-52 m2. Trong văn hóa Khuất Gia Lĩnh, người ta thấy hai ngôi nhà nối liền nhau ở phía bắc và nam, mỗi nhà có 4 gian, mỗi gian có diện tích từ 15-30 mét vuông. Trong nhà tìm thấy một số lượng lớn đồ dùng sản xuất và sinh hoạt, trong tổng số 45 ngôi mộ trong khu lăng mộ, chỉ có 18 ngôi mộ hàng hóa, có thể thấy đây là một ngôi nhà của một gia đình bình thường. [2]
◊ Xuất hiện tục thờ cúng tổ tiên ba đời và hệ thống nam tông:
Hệ thống nam truyền thừa kế có xuất hiện trong văn hóa Đại Khê hay không, chúng ta có thể nhìn thấy từ các di tích tôn giáo thời đó. Tôn giáo không phải lúc nào cũng xuất hiện trong các nền văn hóa, tôn giáo cao và văn hóa hiến tế là một phần quan trọng trong các yếu tố của nền văn minh. Trình độ phát triển của nó phản ánh trực tiếp trình độ của nền văn minh. [2]
Tại khu di tích thành cổ Đẩu Sơn, người ta đã tìm thấy những bệ thờ lớn thuộc giai đoạn thứ nhất đến giai đoạn thứ hai của văn hóa Đại Khê (khoảng 6.400 đến 5.800 năm cách ngày nay) trong lòng thành cổ. là 3 bệ thờ (bàn thờ) chung quanh. Bàn thờ 2 và 3 có tường hông cao khoảng 30 cm xây bằng gạch nung, phía trong tường hông có bệ cao bằng đất ở giữa, xung quanh thấp đắp hoàng thổ nguyên chất. Đáng chú ý nhất là viên đá cuội lớn hình chữ "祖" (tổ) được đặt trong hố tế lễ thuộc giai đoạn thứ hai của văn hóa Đại Khê. Về phần mộ nam và hòn non bộ nổi bật với hình tượng “tổ” mang ý nghĩa cúng tế gia tiên, bàn thờ này mang ý nghĩa chuyển từ tế trời thuần túy sang thờ cúng tổ tiên và duy trì đồng thời hai nghi lễ. [2]
Tôn giáo và các yếu tố khác của nền văn minh phát triển tương ứng. Qua việc phân tích mối quan hệ giữa hai yếu tố này, chúng ta có thể hiểu rõ hơn về giá trị và ý nghĩa của các hiện tượng tôn giáo. Sự thay đổi nội dung và phương thức tế lễ tôn giáo ở Trung lưu sông Dương Tử từ 6400 đến 5500 năm trước có liên quan chặt chẽ với sự xuất hiện của xã hội phụ quyền và sự xuất hiện của các gia đình nhỏ một vợ một chồng với một người chồng trong thời đại. [2]
3. Chế độ phụ hệ trong văn hóa Lương Chử:
Văn hóa Lương Chử nhanh chóng chuyển sang chế độ phụ quyền, làm nông nghiệp phát triển, với nền nông nghiệp chủ yếu dựa vào sức lao động của nam giới, phụ nữ chỉ có thể làm một số công việc phụ trợ. Văn hóa Hà Mẫu Độ, tiền thân của văn hóa Lương Chử, thể hiện một sự tương phản rõ rệt. Văn hóa Hà Mẫu Độ chỉ tìm thấy hạt thóc, chưa có vựa lúa quy mô lớn, trong di tích thành cổ Lương Chử, người ta tìm thấy nhiều kho chứa hàng trăm nghìn cân thóc. [3][4]
Thời Hà Mẫu Độ, nền văn hóa này còn ở giai đoạn sau của xã hội mẫu hệ, chưa có bằng chứng nào cho thấy địa vị của nam giới cao hơn nữ giới. Tuy nhiên, ở các mộ thuộc văn hóa Lương Chử, chúng ta thấy sự ưu việt của mộ nam và đồ tùy táng ở mộ nam so với mộ nữ. Chẳng hạn, những ngôi mộ nam phát hiện trong khu lăng mộ cao cấp Phan Sơn cho thấy những ngôi mộ nam được chôn rất nhiều ngọc thạch, một số mộ được chôn rất nhiều ngọc thạch. Ngọc và ngọc tượng trưng cho quyền lực tối cao, trong khi mộ nữ chỉ có những mảnh khung cửi và kẹp tóc, hiện vật cũng nhỏ hơn, từ đó ta thấy rõ phụ nữ thua kém nam giới về mức độ ‘bình đẳng’”. trong xã hội Lương Chử. [3][4]
Chế độ mẫu hệ và chế độ phụ hệ có một điểm khác biệt rất cơ bản, đó là mồ mả, chế độ mẫu hệ thường chôn nhiều người trong cùng một mộ, đồng táng, nhưng ở văn hóa Lương Chử hiện nay, điều đó không xảy ra. Các ngôi mộ cũng có sự phân biệt rất rõ ràng về địa vị theo giới tính, mộ nam có phần cổ kính hơn mộ nữ, cho thấy thời kỳ này nam giới đóng vai trò trung tâm trong xã hội Lương Chử. Vì vậy, chúng ta có đủ lý do để khẳng định rằng xã hội Lương Chử theo chế độ phụ quyền.
4. Tư liệu khảo cổ học chế độ phụ quyền ở Việt Nam thời văn hóa Đông Sơn:
Người Việt chủ yếu từ vùng Dương Tử [5][6], người Việt gốc Lương Chử và Thạch Gia Hạ di cư vào Việt Nam khoảng 4000 năm trước, hình thành nên văn hóa Phùng Nguyên. Do đó, có thể nói rằng người Việt thừa hưởng văn hóa ở vùng Dương Tử, vào thời điểm đó đã chuyển sang chế độ phụ quyền. Cho đến thời Đông Sơn, cũng có bằng chứng cho thấy tổ chức xã hội thời kỳ này còn mang tính chất phụ hệ.
“Ở những thuộc địa rộng lớn như vậy, chắc hẳn phải có một lượng lớn cư dân tập trung. Họ đã sống với nhau như thế nào? Cơ cấu tổ chức của đơn vị như thế nào? Hồ sơ khảo cổ học giúp làm sáng tỏ những câu hỏi trên. Trước hết, về mặt nhà ở, trên di chỉ Đông Sơn nổi tiếng, nhiều cọc gỗ, cọc gỗ bị chôn vùi (Janse 1947) hay cọc gỗ đổ nát có dấu vết đục đẽo (Lê Văn Lan, Phạm Văn) đã được phát hiện. Kinh, Nguyễn Linh 1963), hàng cột hay hàng đá (Chu Văn Tấn 1970).
Các học giả lịch sử kiến trúc (Nguyễn Khắc Tùng 1982) cho rằng ở Đông Sơn kết hợp hai loại hình kiến trúc. Loại đơn giản có diện tích khoảng 9m2 và loại nhà khung có hai cột (hay lưới mắt cáo không rõ), chỉ thấy gần bếp có ba cột với thang 12m x 6m = 72m2.
Hình khắc trên trống cũng cho thấy có hai kiểu nhà: nhà rộng mái cong và nhà kho hẹp hơn mái tròn. Cả hai đều thuộc loại nhà sàn. Những ngôi nhà này phải thuộc về một gia đình phụ hệ, trong đó nhiều thế hệ đã sống.
Tài liệu tang lễ cũng đưa ra những gợi ý để suy nghĩ theo hướng này. Tại khu mộ Núi Nấp số 1, phát hiện 2 bộ hài cốt: của đàn ông 50 tuổi, của phụ nữ 20 tuổi chôn chồng lên nhau, đồ tùy táng trừ rìu, giáo đồng... , nổi bật là ấn triện khắc chữ “Tỷ” và chiếc trâm 6 chấu bằng ngà voi, 2 bộ xương được xác định thuộc loại Indonesia.
Cũng tại khu mộ Núi Nấp, tại ngôi mộ số 2 bắt gặp một bộ xương nam giới khoảng 30-40 tuổi, cải táng còn hộp sọ, chôn cùng hố với 4 cá thể khác, trong đó có 1 trẻ em. 3 hộp sọ được xác định thuộc loại Nam Á. Tại các di chỉ mộ Quỳ Chử và Thiếu Đường cũng gặp các mộ chồng lên nhau, trong trường hợp xác định giới tính cũng cho thấy đó là các cặp nam nữ.
Các tài liệu kiến trúc và tang lễ bổ sung cho nhau, góp phần làm sáng tỏ tổ chức của đơn vị xã hội cơ bản, cho thấy đây có thể là những gia đình phụ quyền, trong đó các thế hệ ông bà, cha mẹ và con cái cùng chung sống dưới một mái nhà và được chôn cất cùng nhau hoặc cùng nhau khi họ chết. [7]
Từ tư liệu này có thể thấy, đặc điểm của xã hội Việt Nam thời Đông Sơn không mang đặc điểm của xã hội mẫu hệ mà là của một xã hội đã chuyển sang chế độ phụ hệ.
5. Đối chiếu với tư liệu gia phả Hồng Bàng:
Các tư liệu trong bộ sử họ Hồng Bàng cũng cung cấp cho chúng tôi những thông tin quan trọng để đối chiếu với các tài liệu khảo cổ học, về vấn đề độ tin cậy của bộ sử họ Hồng Bàng, chúng tôi cũng đã có một bài nghiên cứu […] 8], như vậy chúng ta có đủ cơ sở sử dụng bộ sử họ Hồng Bàng để biết thêm về chế độ xã hội thời kỳ này. “Cháu ba đời của Yên Đế, hiệu là Thần Nông, hiệu là Đế Minh, sinh là Đế Nghi, xuôi về phía nam Ngũ Lĩnh, gặp cô gái Vũ Tiên, đem lòng yêu lấy chồng trẻ, sinh ra Lộc Tục, dung mạo đoan chính, thông minh, chân chất Đế Minh lấy làm lạ bèn nối ngôi, Lộc Tục tìm cách nhường ngôi Đế Minh lập Đế Nghi làm tự trị phương bắc, phong Lộc Tục làm Kinh Dương Vương để cai trị phương Nam, đặt quốc hiệu là Xích Quy Quốc.
Kinh Dương Vương xuống thủy phủ, lấy con gái Long Nữ của vua Động Đình, sinh ra Sùng Lãm, tức Lạc Long Quân; Lạc Long Quân thay cha trị nước, Kinh Dương Vương đi đâu không biết.”[9]
Chi tiết thứ nhất này cho ta thấy từ đời thứ 3 dòng họ Thần Nông là Đế Minh, theo chế độ phụ hệ, cha truyền con nối, Đế Minh sinh ra Đế Nghi và Lộc Tục chia cho Lộc Tục. phương Nam, Đế Nghi làm vua phương Bắc. Thời kỳ này tương ứng với văn hóa Lương Chử (Liangzhu, 3300-2000 TCN). Sau đó Kinh Dương Vương tiếp tục truyền ngôi cho Lạc Long Quân, kế thừa nhà nước trong nền văn hóa Thạch Gia Hà (Shijiahe, 2500-2000 TCN).
“Trăm trai đều nghe mệnh, rồi mới từ giã mà đi. Âu Cơ cùng với năm mươi người con trai ở tại Phong Châu – (bây giờ là huyện Bạch Hạc), tự suy tôn người hùng trưởng lên làm vua, hiệu là Hùng Vương, quốc hiệu là Văn Lang; về bờ cõi của nước thì Đông giáp Nam Hải, Tây đến Ba Thục, Bắc đến Động Đình hồ, Nam đến nước Hồ Tôn Tinh (bây giờ là nước Chiêm Thành), chia trong nước làm mười lăm bộ là: Giao Chỉ, Chu Diên, Ninh Sơn, Phúc Lộc, Việt Thường, Ninh Hải, Dương Tuyền, Quế Dương, Vũ Ninh, Hoài Hoan, Cửu Chân, Nhật Nam, Quế Lâm, Tượng Quận, sai các em phân trị, đặt em thứ làm tướng võ, tướng văn; tướng văn gọi là Lạc Hầu, tướng võ gọi là Lạc tướng, con trai vua gọi là Quang Lang [35], con gái gọi là Mỵ Nương, quan Hữu ty gọi là Bồ chính, thần bộc nô lệ gọi là nô tỳ, xưng thần là khôi, đời đời cha truyền con nối gọi là phụ đạo, thay đời truyền cho nhau đều hiệu là Hùng Vương không đổi.” [9]
Các con của Cha Lạc Long Quân và Âu Cơ đều là con trai, 50 con trai theo Mẹ Âu Cơ về miền Bắc Việt Nam, lên ngôi, lấy hiệu là Hùng Vương, “đời đời cha truyền con nối”, các Lạc tướng là em của vị vua Hùng đầu tiên được phân chia cai trị các vùng, cũng đời đời cha truyền con nối.
Như vậy các tài liệu trong truyện họ Hồng Bàng cũng cho chúng ta thấy những dữ kiện tương đương với các tài liệu khảo cổ tại vùng Dương Tử và Việt Nam. Từ thời Lạc Long Quân trở về trước thì người Việt có địa bàn trong vùng Dương Tử, từ đầu thời Hùng Vương, thì địa bàn của người Việt kéo dài tới miền Bắc Việt Nam, trong đó trung tâm nhiều thời kỳ nằm tại miền Bắc Việt Nam.
6. Khởi nghĩa Hai Bà Trưng, Bà Triệu:
Khởi nghĩa Hai Bà Trưng, Bà Triệu là những cuộc khởi nghĩa đầu tiên của nhân dân Việt Nam sau khi bị Hán hóa, các cuộc khởi nghĩa này đều nổi tiếng về các nữ tướng và các vị vua nên có nhiều tác giả dựa vào đây để cho rằng thời kỳ Các vua Hùng vẫn theo chế độ mẫu hệ.
Tuy nhiên, căn cứ vào những bằng chứng khảo cổ mà chúng tôi dẫn ra ở trên, có thể khẳng định rằng người Việt Nam đã sớm theo chế độ phụ hệ, tuy nhiên, vai trò của người phụ nữ trong xã hội Việt Nam vẫn rất quan trọng. , có địa vị và tiếng nói, không bị chèn ép như chế độ phụ quyền của người Hán, phụ nữ Việt Nam cũng có đủ quyền và tiếng nói để tổ chức các cuộc khởi nghĩa.
Đọc thêm thông tin khởi nghĩa Hai Bà Trưng, ta thấy cuộc hôn nhân của bà Trưng Trắc với Thi Sách chính là sợi dây liên kết giữa hai dòng họ Lạc tướng ở Mê Linh và Chu Diên, bà Trưng Trắc đã “lấy công làm vợ” Thi Sách. ”, ta thấy chế độ gia trưởng thể hiện rất rõ ở chi tiết này.
Hậu Hán thư cũng chép: “Năm thứ mười sáu (năm 40), người con gái Giao Chỉ là Trưng Trắc cùng em là Trưng Nhị nổi dậy đánh huyện lỵ, Trưng Trắc là con gái của Lạc Tướng quân nước Huyện Mê Linh, lấy Thi Sách người Chu Diên, người rất dũng cảm. Thái tử Giao Chỉ Tô Định có luật ràng buộc, Trác phẫn uất nên chống cự. Vì thế, các rợ Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố đều hưởng ứng, cướp lấy sáu mươi lăm thành, lập làm vua.”[10]
Nếu Thi Sách không bị Tô Định đả thương thì thủ lĩnh của cuộc khởi nghĩa này là Thi Sách và vợ là Trưng Trắc, tuy nhiên Thi Sách đã bị Tô Định giết nên hai chị em Trưng Trắc đều chết. bênh vực chồng để lãnh đạo cuộc khởi nghĩa giành độc lập cho dân tộc Việt Nam. Cuộc khởi nghĩa đã thành công vang dội, chiếm được 65 thành, tức là toàn bộ vùng Lĩnh Nam và Việt Nam. Cuộc khởi nghĩa này cũng có nhiều nữ tướng, tuy nhiên đó chỉ là biểu hiện của sự tôn trọng phụ nữ của người Việt trong xã hội các vua Hùng, phụ nữ có địa vị thấp hơn nam giới. Tuy nhiên, họ cũng có đủ tiếng nói để bảo vệ nền độc lập dân tộc, như những người phụ nữ anh hùng của Việt Nam trong các cuộc chiến tranh bảo vệ nền độc lập dân tộc trong thời kỳ tự chủ.
Còn bà Triệu là em gái của Triệu Quốc Đạt. Triệu Quốc Đạt nổi dậy chiêu tập nghĩa quân ở vùng núi Nưa, tỉnh Thanh Hóa. Triệu Quốc Đạt không muốn em gái là Triệu bà tham gia, khuyên bà ở nhà lập gia đình, nhưng bà Triệu ngoan cố đáp: “Ta muốn cưỡi gió to, cưỡi sóng dữ, chém cá. " đánh giặc ở biển Đông, đuổi quân Ngô về giang sơn, cởi bỏ ách nô lệ nhưng không chịu khom lưng làm vợ lẽ. Vì vậy, cô đã tham gia cuộc nổi dậy do anh trai mình bắt đầu. Nghĩa quân của hai anh em từ núi Nưa, tỉnh Thanh Hóa kéo đến đánh vào các trấn, ấp làm cho quân đô hộ rối loạn, quan lại định dẹp yên nhưng không được. Tiếc rằng sau khi Triệu Quốc Đạt mất, bà Triệu đã đứng lên lãnh đạo cuộc khởi nghĩa thay cho anh trai mình. Qua đó có thể thấy Bà Triệu kế thừa nghĩa quân của anh mình chứ không phải ngay từ đầu bà đã có đủ sức mạnh để tổ chức một đội quân đông đảo như vậy khởi nghĩa đánh đổ ách thống trị của giặc phương Bắc.
Từ những tư liệu trên, về cơ bản chúng ta có thể thấy rằng các cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng, Bà Triệu ngay từ đầu không phải do phụ nữ lãnh đạo, nên chưa đủ cơ sở để dựa vào đây mà khẳng định rằng người Việt theo chế độ mẫu hệ, mà là Điều này chỉ có thể nói rằng người phụ nữ có vai trò và địa vị cao trong xã hội Việt Nam chứ không thấp kém và kém tiếng như xã hội của người Hán.
7. Kết luận:
Như vậy, qua các tư liệu khảo cổ và lịch sử, chúng ta có thể thấy người Việt theo chế độ phụ hệ từ rất sớm, từ nền văn minh sông Dương Tử, khi di cư sang Việt Nam, người Việt cũng kế thừa những di sản ở đó, tiếp tục theo chế độ phụ hệ. Bằng chứng ở miền Bắc Việt Nam cũng cho thấy người Việt Nam có chế độ gia trưởng. Vì vậy, chúng ta có thể bác bỏ nhận định cho rằng người Việt vẫn theo chế độ mẫu hệ, kém phát triển và kém văn minh.
Nội dung bài viết:
Bình luận