Chế độ mẫu hệ của người Chăm hiện nay

Thuật ngữ “mẫu hệ” (tiếng Anh là “matriarchy”) được đặt ra từ thế kỷ 19, bắt nguồn từ các từ Hy Lạp: “mét” có nghĩa là “mẹ” và “archê” có nghĩa là “nguồn gốc, xuất xứ”. sau  có nghĩa là "luật, tục". ". Thuật ngữ này được E.B. Tylor sử dụng lần đầu tiên  vào năm 1896 (được biết đến từ công trình  của J.J. Bachofen và L.H. Morgan), trong bài viết "Hệ thống gia đình mẫu hệ". Nhiều người đã coi mẫu hệ hoặc mẫu hệ có nghĩa là người phụ nữ, người lãnh đạo, nắm quyền , tương tự như chế độ phụ quyền thường đi đôi với chế độ phụ quyền và đồng nhất chế độ mẫu hệ với chế độ mẫu hệ Chế độ mẫu hệ thường liên quan đến một hình thức tổ chức xã hội trong đó quyền lực thuộc về phụ nữ hoặc các bà mẹ, và chế độ mẫu hệ hay  mẫu hệ là một hình thức tổ chức xã hội trong đó  phụ nữ, đặc biệt  người mẹ, giữ vai trò lãnh đạo, quyền lực và tài sản được truyền từ mẹ sang con gái”

chế độ mẫu hệ người chăm
chế độ mẫu hệ người chăm

1. Một số vấn đề về mẫu hệ 

 

 Bửu Lịch trong Nhân chủng học và Nhân chủng học viết “Thường người ta hiểu mẫu hệ  là một chế độ mà người phụ nữ có quyền  vượt trội hơn nam giới trong nhiều lĩnh vực và nhiều lĩnh vực” và ông  kết luận rằng mẫu hệ là một thể thức kết hợp giữa mẫu hệ và mẫu hệ cư trú. [Bửu Lịch 1970: 343]. 

 Vào thế kỷ 19, theo thuyết tiến hóa, lịch sử tiến hóa của xã hội loài người phát triển từ dưới lên, xã hội đầu tiên là xã hội mẫu hệ. Theo Britanica Micropeadia "Bị ảnh hưởng bởi thuyết tiến hóa của Charles Darwin và một phần trong công trình của  J.J. Bachofen và Lewis H. Morgan người Thụy Sĩ, lập luận rằng chế độ mẫu hệ  kế tục thời kỳ  hôn nhân khác chủng tộc và có trước thời kỳ phụ hệ trong quá trình phát triển của xã hội loài người. Mẫu hệ là một hình thái tổ chức xã hội được hình thành trong xã hội nguyên thủy - thời kỳ sớm của lịch sử phát triển xã hội loài người, khi con người nhận thức được sự cần thiết phải từ bỏ tập tục quần hôn và bắt đầu có ý thức về dòng họ bởi tập tục quần hôn khiến cho người ta không xác định được chính xác cha của đứa bé là ai, trong khi đó huyết thống phía mẹ thì hoàn toàn được xác định rõ.  

 Mẫu hệ là sự nhận thức về dòng họ trong quá trình hình thành cộng đồng theo nguyên lý cùng dòng giống (co-descenlance). Theo nguyên lý này, những người do cùng một mẹ sinh ra (huyết thống mẹ) luôn có một sợi dây liên kết chặt chẽ. Trong xã hội nguyên thủy, dưới hình thức quần hôn, người cha không có nhiều trách nhiệm cũng như sự ràng buộc với gia đình, con cái, còn người mẹ là người sinh con ra, nuôi nấng, dạy dỗ con cái từ lúc còn nhỏ cho đến lúc trưởng thành. Từ đó hình thành nên những thị tộc mẫu hệ hay thị tộc mẫu quyền là “tập thể ngoại hôn của những người cùng huyết thống tính theo dòng mẹ, tự giác về sự thống nhất của mình theo tên gọi chung của thị tộc, trong các nghi lễ tôtem giáo và là một đơn vị kinh tế - xã hội của xã hội nguyên thuỷ, tìm thấy ở nhiều tộc người trong nhiều giai đoạn khác nhau của xã hội chưa có giai cấp như ở một bộ phận thổ dân Úc, ở người Mélanésie, ở thổ dân Bắc Mĩ, vv… Đặc điểm của xã hội mẫu hệ là người phụ nữ giữ vai trò quan trọng trong sản xuất, trong đời sống gia đình và ngoài xã hội”[Bách khoa toàn thư điện tử] 

 

 J.M. Lenan (1827-1881) tác giả người Anh, trong cuốn “Hôn nhân nguyên thủy”, khi tìm hiểu những tập quán đã từng tồn tại một cách phổ biến trong các nền văn hóa khác nhau như cưới trộm, hôn nhân ngoại tộc (ngoại tộc hôn), hôn nhân đa phu (người phụ nữ lấy nhiều chồng), đã coi đó là những đặc điểm của những thị tộc theo dòng mẹ [dẫn theo J.M. Lenan 1865: 35] 

 

 Như vậy quan điểm của các nhà khoa học theo thuyết tiến hóa thì chế độ mẫu hệ chính là dấu vết của xã hội mẫu quyền thời xa xưa. Các cộng đồng có lịch sử mẫu hệ hiện đại, dưới áp lực  hiện đại hóa và  phân công lao động xã hội, đã chuyển sang chế độ phụ hệ. Như vậy, đối với hầu hết các cộng đồng xã hội hiện đại, chế độ mẫu hệ là một “giai đoạn” trong lịch sử phát triển của nó,  những dấu tích của nó còn lưu lại dưới hình thức này hay hình thức khác.  

 Theo Edward Westermarck (1862 - 1939), nhà dân tộc học và xã hội học Phần Lan, giáo sư đại học  Henxinki và Luân Đôn, với tác phẩm "Lịch sử hôn nhân  loài người", cho rằng chế độ một vợ một chồng là phương thức hôn nhân và gia đình đầu tiên của xã hội nguyên thủy, đồng thời phủ nhận hiện tượng dị vợ và  mẫu hệ. Trong “The Encyclopedia of Social and Cultural Anthropology” (1996), “mẫu quyền  chỉ  sự thống trị của các thành viên nữ trong xã hội, và mẫu hệ là sự tính toán dòng dõi về phía người mẹ”. [Thu Nhung Mlô 2000: 52]. Theo đó, F. Engels cho rằng chế độ mẫu hệ chỉ là dòng dõi bên mẹ, cha mẹ cùng dòng tộc sẽ thừa kế  và tài sản được chia cho những người cùng dòng dõi với mẹ của những người  con  của một người  chết đi sống lại. lại không thuộc  thị tộc mình mà thuộc  thị tộc  mẹ [Ph. Angel 1961: 79]. Vì vậy, nếu các khái niệm về chế độ phụ hệ và phụ hệ gần như giống nhau, thì chế độ mẫu hệ và mẫu hệ là khác nhau. Trên cơ sở nghiên cứu xã hội mẫu hệ của nhiều dân tộc, các nhà khoa học đã xác định, mẫu hệ là cách tính dòng dõi theo bên mẹ, quyền thừa kế tài sản, quản lý tài sản và con cái đều được truyền  cho nhau. . Quyền này đôi khi chỉ được thể hiện bằng việc lấy họ mẹ đặt cho con, gọi là “mẫu hệ” hoặc “mẫu tự” hoặc “mẫu hệ” khi người đàn ông về quê vợ. Còn mẫu quyền là quyền lực trong gia đình và xã hội nằm trong tay người phụ nữ. 

 "Chế độ mẫu hệ" hoặc "mẫu hệ" hoặc "mẫu hệ" đề cập đến một giá trị lịch sử truyền thống hơn  hiện đại và thường được sử dụng để mô tả các cộng đồng và xã hội cổ xưa và truyền thống  ngày nay ngày càng hiếm, chẳng hạn như  Musuo 摩梭 ở Trung Quốc, Cư dân đảo  Minicoy [1], cộng đồng  Nair [2], bang Minangkabau [3],  người Tojolabalian [4],… Ở Việt Nam có nhiều dân tộc  cư trú ở Trường Sơn Tây Nguyên thuộc loại hình xã hội mẫu hệ  gồm  Chăm, Ê Đê, Raglai, J'rai, K'ho, M'nông, Mạ... Ngoài ra, ở một số dân tộc  ở các vùng Tây Tạng, Nê-pan, nam Ấn Độ và Xri Lan-ca, bắc Ni-giê-ri-a và bắc Cam-pu-chia vẫn tồn tại chế độ đa phu, một phụ nữ được phép chọn nhiều chồng. Bách khoa toàn thư Britannica nghi ngờ, "chế độ mẫu hệ như  một giai đoạn trong lịch sử phát triển xã hội  thế giới" và lập luận rằng một xã hội  mẫu hệ thực sự, triệt để chưa từng tồn tại trong lịch sử" [Britannica]] 

 

 Xã hội mẫu hệ của các dân tộc trên thế giới  khá phong phú và đa dạng. Theo từng địa phương, từng dân tộc, vai trò, quyền năng của người phụ nữ được thể hiện khác nhau nên việc thừa kế, quản lý tài sản, con cái hay hình thức cư trú sau hôn nhân có những đặc điểm khác nhau. Ví dụ, ở người Minangkabau ở Tây Sumatra (Indonesia), tài sản của ông bà luôn được chuyển  cho dòng dõi nữ, nhưng “Người phụ nữ không hỗ trợ tài sản này, nhưng nó được chia cho anh trai của cô ấy… anh ấy… quản lý tài sản về phía mẹ và  truyền lại cho các cháu  là con của các chị” [Thu Nhung Mlô 2000: 23]. Bộ tộc Goajiro Arawak của Colombia và Venezuela với xấp xỉ 60.000 người sống ở Nam Mỹ, cha ông và dòng dõi đều được ghi chép. Con sinh ra  đầu tiên ở với mẹ, sau đó  chị hoặc em gái của mẹ sẽ nuôi cháu gái, và anh  hoặc em  của mẹ sẽ nuôi  cháu trai. Vì vậy, đứa trẻ dù là trai hay gái đều được nuôi nấng và lớn lên trong gia đình mẹ đẻ. Đối với người Musuo, tính chất mẫu hệ ở đây được thể hiện dưới nhiều hình thức, nhưng nổi bật là  tục  chọn bạn trai trong ngày hội, khi có con thì con ở với mẹ,  bố  không được ở riêng với bố. người mẹ. đến thăm tôi nhưng không ở lại, v.v. 

 

 Tóm lại, mẫu hệ là  tính theo dòng mẹ, con cái mang dòng mẹ, thừa kế tài sản theo dòng mẹ, vợ chồng sau khi kết hôn  cư trú bên vợ. Trong xã hội mẫu hệ, người phụ nữ có vai trò quan trọng trong gia đình, dòng tộc. Đặc điểm bao trùm  toàn bộ xã hội của các tộc người trên là vai trò nổi trội của dòng nữ (dòng mẹ). Như vậy, mẫu hệ ở đây được hiểu là một xã hội mà quan hệ huyết thống, quan hệ thừa kế được tính theo dòng  mẹ. Mẫu hệ vừa là một hình thái xã hội, vừa  là một hình thái văn hóa trong đời sống tộc người. 

  2. Nguồn gốc mẫu hệ của người Chăm 

 

 Hiện nay, nhiều người hiểu chế độ mẫu hệ của người Chăm đúng nghĩa  là một chế độ xã hội mà người phụ nữ nắm quyền, kể cả quyền bắt chồng, con cái phải lấy họ mẹ. Điều này không hoàn toàn đúng, bởi thực tế, ở người Chăm  Ninh Thuận và Bình Thuận, con gái đến tuổi lấy chồng, con trai  ở rể, con nối dõi tông đường, nhưng vì Chez les Chams du Sud thì con trai phải  hỏi vợ xem mình có phải là em vợ hay không, nhưng  con cái thì phải nối dõi tông đường [Phù Văn Phải 1996: 12]. Về nguồn gốc của chế độ mẫu hệ Chăm, có thể xem xét các yếu tố sau: nguồn gốc lịch sử, nguồn gốc kinh tế - chính trị, nguồn gốc nhân chủng học và yếu tố tình cảm: 

 

 - Về nguồn gốc lịch sử, theo truyền thuyết, người Chămpa thờ nữ thần Pô Inư Nưgar là “thần mẹ  xứ sở”, người thắp sáng  gấm vóc của dân tộc Chămpa. Pô Inư Nưgar là nữ thần khai hóa của dân tộc Chămpa, dạy  họ cách cai quản đất nước và con người, cách sản xuất lúa nước, cách làm lúa nước,  cách dẫn thủy nhập điền để phát triển kinh tế, cách  trồng bông. Người Chăm có cuộc sống ấm no, sung túc. Phải chăng vì nhân vật đầu tiên khai sáng dòng sông Champa là một nữ thần nên người Champa có nguồn gốc quá khứ? 

 - Về yếu tố kinh tế - xã hội, người Chăm xưa được biết đến là những người giỏi  đánh cá và đi biển, dải đất miền Trung có bờ biển dài thuận lợi cho việc  buôn bán và đánh bắt hải sản, nghề này  phù hợp với mọi tầng lớp dân cư. họ phù hợp với nam giới, họ thường xuyên đi công tác xa, xa  nhà  nên  phụ nữ có vai trò rất quan trọng, họ quán xuyến mọi việc trong gia đình. 

  - Về nhân chủng học, theo các nhà khảo cổ học, người Chăm có nguồn gốc từ dòng Mã Lai - Đa Đảo, một khu vực của nền văn minh hải đảo chịu ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ và Hồi giáo nhưng vẫn  theo chế độ mẫu hệ.  - Về yếu tố tình cảm, do bố thường xuyên vắng nhà, mẹ là người mang nặng đẻ đau, sống gần gũi, chăm sóc  con  nên con cái thường  yêu mẹ hơn bố. 

 Tôi nghĩ người Chăm cho rằng Po Nagar được coi là người có công tạo dựng nên Champa nên đã tác động sâu sắc đến tín ngưỡng, tín ngưỡng của cộng đồng này. Khi Bà la môn giáo và Hồi giáo (cả hai đều mang tính phụ quyền cao) du nhập vào người Chăm thì xã hội mẫu hệ hay  dấu ấn của xã hội mẫu hệ vẫn còn tồn tại. Như vậy, chế độ mẫu hệ của dân tộc Chăm không phải là sản phẩm văn hóa của Bà La Môn giáo hay Hồi giáo, mà dường như  đã có từ trước khi tiếp xúc với văn hóa Ấn Độ.  

 Người Chăm là một trong những dân tộc, tộc người Mã Lai - Đa Đảo (gồm  Chăm, Raglai, Ê Đê, Chu Ru, Gia Rai) có truyền thống văn hóa mẫu hệ. Gia đình mẫu hệ có sự khác biệt nhất định giữa các dân tộc và ít nhiều thay đổi  theo thời gian về quy mô, cơ cấu, phương thức hoạt động... Là một dân tộc, văn hóa mẫu hệ chi phối địa vị  của mọi người trong gia đình. Phụ nữ Êđê  nắm hầu hết mọi công việc kinh doanh của gia đình. Ngoài ra, phụ nữ còn có chỗ đứng trong cộng đồng và ngoài xã hội. Trong khi đó, người J'rai theo chế độ mẫu hệ nhưng  không cho phụ nữ vào nhà rông (ngôi nhà chung của cộng đồng). Đối với người Chăm, mặc dù đã trải qua những  thăng trầm của lịch sử và chịu ảnh hưởng của nhiều nền văn hóa khác nhau nhưng cộng đồng này vẫn giữ được bản sắc truyền thống riêng, nổi bật là chế độ mẫu hệ, thể hiện trên nhiều mặt của đời sống kinh tế, giáo dục, hôn nhân - gia đình và thừa kế. của tài sản, v.v... 

 

 Văn hóa mẫu hệ ngoài việc thể hiện rõ nét trong gia đình, dòng tộc của người Chăm còn tác động mạnh mẽ đến tổ chức xã hội theo dòng mẹ, các nghi lễ theo mẫu hệ cũng là một yếu tố quan trọng cấu thành nên hệ thống các nghi lễ  phong thủy. . Hải quan Chăm. Trong xã hội truyền thống, trong mọi sinh hoạt gia đình, người phụ nữ Chăm đóng vai trò quan trọng trong việc cưới xin, ma chay, tế lễ,  quản lý tài sản gia đình và con cái. 

 Trong hôn nhân, khi người con gái đến tuổi lấy chồng, người phụ nữ chủ động đi hỏi chồng và cưới. Những đứa trẻ được sinh ra và nhận nuôi bên "mẹ" là bà nội. Người mẹ có quyền quyết định thay cho con cái, người phụ nữ lớn tuổi nhất trong gia đình có quyền quyết định mọi công việc trong gia đình, dòng họ. Mặc dù đàn ông thực sự đóng vai trò chính trong lao động sản xuất, nhưng chủ gia đình vẫn là một người phụ nữ lớn tuổi. Người quản lý tài sản, nhà cửa, ruộng vườn... là người phụ nữ. Phong tục của người Chăm quy định con cái theo họ mẹ. Nhà gái cưới  cho con trai. Con trai ở trong nhà của người phụ nữ. Chỉ  con gái mới được thừa kế tài sản, đặc biệt cô út phải phụng dưỡng cha mẹ già nên được  chia tài sản lớn hơn các chị. Trong trường hợp  ly hôn, tất cả trẻ em vẫn ở với mẹ. Tài sản chung của  vợ chồng được giao  cho người vợ quản lý và giao  cho  con gái trong gia đình. Người đàn ông ra về tay trắng. 

 Đối với việc thờ cúng trong gia đình, người vợ (phu nhân) đứng ra đảm đương, quán xuyến mọi việc vì người chồng là người lạ (urang parat), không có quyền điều hành những việc liên quan đến công việc thờ cúng, cúng tế của vợ. Về việc cúng tế  tổ tiên, ông bà, tổ tiên là thể hiện lòng biết ơn công sinh thành, nối dõi tông đường đối với gia tộc, dòng họ và quốc gia. Nếu chẳng may người chồng chết trước thì người vợ sau khi lo hỏa táng cho chồng  sẽ mang 9 mảnh xương trán của người chồng quá cố để gia đình chồng đưa vào Kut (nghĩa trang tập thể của họ mẹ). Người Chăm cho rằng trước khi sinh ra  đứa trẻ nằm ngay bên cạnh mẹ (trong bụng mẹ) nên khi chết đứa bé cũng phải ở bên cạnh mẹ, chung một nghĩa địa với mẹ. Trong các cuộc tế lễ ở đền hay các lễ trọng liên quan đến cộng đồng làng xã, người phụ nữ trong gia đình đảm đương. 

 Khi nói đến chế độ mẫu hệ, nhiều người coi đó là một hệ thống xã hội hoặc gia đình, trong đó phụ nữ có tất cả các loại quyền; quyền làm chủ gia đình, quyền quản lý tài sản, con cái, quyền chính trị, quyền xã hội, quyền  tiêu tiền... Nhưng  thực tế, trong chế độ mẫu hệ Chăm, người phụ nữ không chỉ có quyền lực trong gia đình. , lo việc gia đình  là bổn phận  nối dõi tông đường và lo việc thờ cúng như người đàn ông có trách nhiệm và quyền lợi đối với xã hội. Triết lý sống này được thể hiện  trong câu ngạn ngữ của người Chăm: 

 

 "Giống như dong di musuh, kamei dong di munuk" 

 

 Nghĩa là “đàn ông đánh trận, đàn bà đẻ con”. 

 

 (Đàn ông có trách nhiệm chiến đấu, đàn bà có trách nhiệm sinh đẻ). 

  Ngày nay, chế độ mẫu hệ của người Chăm vẫn duy trì truyền thống thông gia, vẫn là những người trong gia đình mẹ và  vợ. Dòng hôn nhân ở đây được chỉ định chính xác. Mặc dù phụ nữ là  chủ gia đình nhưng vai trò của nam giới trong gia đình khá quan trọng, chi phối mạnh mẽ đến đời sống gia đình và xã hội. Đó là sự chia sẻ công bằng, bình đẳng  trong việc xây dựng và phát triển gia đình và xã hội. Điều này có thể giải thích vì sao người Chăm theo chế độ mẫu hệ nhưng không có hoàng hậu? Tương truyền Pô Inư Nưgar  là một nữ anh hùng kiệt xuất  nhưng cũng không phải là vua. Quyền được giáo dục cũng là một ưu tiên đối với trẻ em trai. 

 3. Những thay đổi trong xã hội mẫu hệ  Chăm 

 

 Theo thời gian, cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội, đời sống của người Chăm có nhiều thay đổi làm thay đổi  văn hóa mẫu hệ của người Chăm. Tùy  từng địa phương, từng dân tộc mà vai trò, quyền năng của người phụ nữ được thể hiện khác nhau nên việc thừa kế, quản lý tài sản, con cái hay hình thức cư trú sau hôn nhân có những đặc điểm khác nhau.  

 Cộng đồng người Chăm theo đạo Hồi có sự pha trộn giữa các yếu tố văn hóa truyền thống mẫu hệ  và Hồi giáo, trong đó hình thức cư trú sau hôn nhân là một biểu hiện của sự pha trộn này. Chẳng hạn, ngày xưa chú rể ở hẳn với cô dâu, nhưng ngày nay  không bắt buộc, có khi chú rể chỉ cần ở với chú rể vài tháng, vài ngày. 

  Xã hội  Chăm Nam Bộ là tổng hòa của truyền thống văn hóa, tín ngưỡng tôn giáo, thể chế chính trị - xã hội, có vai trò không thể phủ nhận  trong sự duy trì và phát triển lâu dài của cộng đồng. tạo ra các giá trị,  quy tắc và thể chế được tôn trọng và không dễ  thay đổi. Đó là sự phụ thuộc của cá nhân vào tín ngưỡng, tôn giáo của gia đình. Tất cả những người đã chết đều được đưa đến nghĩa trang của gia đình mẹ. Ngay cả khi một người đàn ông kết hôn và phải ở với vợ của mình, thì khi chết, nếu anh ta là người Bani, thi thể của anh ta phải được đưa về chôn cất tại nghĩa trang (ghur, kut) của gia đình mẹ anh ta. Nó ảnh hưởng đến tâm lý, nhiều người không muốn xuất gia vì sợ  chết  ngoài làng là chết oan. 

 Sự phát triển của hoàn cảnh xã hội đã dẫn đến những biến đổi và tác động đến chế độ mẫu hệ của người Chăm ở nhiều khía cạnh và  mức độ đậm nhạt khác nhau, như xuất hiện nhiều yếu tố  phụ quyền, những thay đổi về cấu trúc gia đình, những thay đổi nhất định trong phong tục cưới hỏi, thờ cúng, tâm lý xu hướng muốn định cư ở Kut cũng  giảm, cánh cửa Kut cũng  rộng mở hơn trước rất nhiều… 

 

 Đối với người Chăm theo đạo Hồi ở Nam Bộ, hôn nhân được thực hiện theo nguyên tắc: “Cấm tín đồ lấy mẹ chồng, con gái, chị  ruột,  cô, dì, chú, bác ruột (con của anh/chị/em ruột) với mẹ nuôi, con ruột. chị em cùng chung dòng sữa, mẹ chồng, con dâu, con dâu của người đàn bà…”. (Điều 27 chương IV kinh Koran). Bảo đảm tuân theo nguyên tắc hôn nhân này, nhưng người Chăm coi các hình thức hôn nhân là anh em ruột thịt (hôn nhân giữa con và bác) và hôn nhân là anh em họ hàng (hôn nhân giữa anh chị em ruột và hôn nhân giữa con và chú, bác và dì). dì) được khuyến khích. Đây không chỉ là sự ủy quyền theo giáo luật, mà còn  để ngăn chặn tài sản  bị tiết lộ và con trai trở về với vợ, cũng như các thành viên trong gia đình anh ta. Hình thức kết hôn trên tuy được khuyến khích nhưng lại trái với quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 (được Quốc hội khóa X thông qua ngày 09/06/2000 và có hiệu lực  từ ngày 01/01/2001 (tr. 43). Ngoài ra, trong phong tục adat Chăm cổ xưa, quy định nữ đủ 16 tuổi, nam đủ 18 tuổi mới được kết hôn, hiện nay quy định về tuổi kết hôn theo luật đã khác. vợ…những điều này cũng vi phạm chế độ  một vợ một chồng.  

 Mặt khác, theo văn hóa truyền thống mẫu hệ  của người Chăm: Adat drei kamei khik sang (quản gia), người  nữ không  bỏ palei, tức là không  bỏ kut (hay ghur), còn người nam có thể  đi xa, có thể lấy chồng nước ngoài, nhưng người phụ nữ vẫn ở lại, gắn bó cuộc đời với làng quê, ít  và ít có cơ hội (về mặt tâm lý) ra ngoài, và cũng ít có cơ hội học lên cao hơn  nam giới.  Do nhu cầu phát triển chung của xã hội ngày nay, đòi hỏi người phụ nữ trong gia đình không chỉ là người mẹ, người vợ, quản lý tài sản, dạy dỗ con cái trong khuôn khổ tập tục mà họ còn là một thành viên trong gia đình. Điều quan trọng là phải bảo tồn các phong tục  truyền thống. Người phụ nữ Chăm ngày nay còn phải thể hiện mình trong  hoạt động xã hội hiện đại, không ngừng nâng cao trình độ ý thức, để không  chỉ hỗ trợ chồng trong công việc xã hội mà còn phải có khả năng tự mình thực hiện công tác xã hội.  

 Tóm lại, mỗi dân tộc khác nhau đã hình thành nên một nền văn hóa với những  truyền thống đặc sắc riêng. Trong quá trình chung sống, giao lưu văn hóa giữa các dân tộc anh em đã làm phong phú thêm nền văn hóa  truyền thống của mỗi dân tộc. Như vậy, sự tiếp nhận những yếu tố văn hóa mới từ các dân tộc anh em đồng thời cũng là sự tự giới thiệu và tự khẳng định mình. Văn hóa mẫu hệ Chăm mặc dù đã trải qua nhiều thế hệ nối tiếp nhau nhưng vẫn tiếp tục tồn tại và đã tự điều chỉnh, tiếp thu những yếu tố mới để thích nghi với hoàn cảnh mới. Việc tìm hiểu và bảo tồn các giá trị văn hóa luôn là điều cần thiết và có ý nghĩa sâu sắc.

 

Nội dung bài viết:

    Hãy để lại thông tin để được tư vấn

    comment-blank-solid Bình luận

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo