I. NGƯỜI CHĂM THEO CHẾ ĐỘ MẪU HỆ

Hiện nay, cộng đồng người Chăm theo đạo Chính thống vẫn theo chế độ mẫu hệ, trong đó xác định rõ: nhóm Hồi giáo Bàni - Bà la môn theo chế độ mẫu hệ, nhóm Hồi giáo mới (Alamabad thuộc khối Ả Rập Xê Út) theo chế độ phụ hệ.
Chế độ mẫu hệ tạo ra nhiều cơ chế ràng buộc xã hội Chăm, phong tục tập quán giao quyền cho vợ, chồng, con tạo nên một quy tắc riêng, pháp luật nhà nước chưa can thiệp hoàn toàn.
- Chế độ thai sản: con mang họ mẹ
Nói đến họ mẹ trước hết phải nói đến họ của người Chăm. Theo tài liệu về họ của người Chăm đăng trên Kraung Dung xuất bản tháng 10 năm 2005, chỉ những người thuộc hoàng tộc mới có họ. Những gia đình đó là: Ông (Indra), Ma (Maha), Tra (Jaya) và Che (Cri). Ngoài ra còn có hai họ khác là Rucha và Pudra nhưng ngày nay ít được sử dụng. Tầng lớp bình dân chỉ sử dụng Ja cho nam và Inu cho nữ trước tên của họ, đến khi trưởng thành tên này sẽ được kết hợp với tên của Thánh trong tôn giáo hoặc theo tên của cha mẹ. Năm Minh Mạng thứ 14, một số họ được đặt cho người Chăm gồm: Bá, Đặng, Hứa, Lưu, Lưu, Hàn, Lộ, Mã, Châu, Ngụy, Tử, Tá, Thiện, Ức, Văn , Ưng, Lâm, Hải. , beo , cây , dương , quang , tượng , tượng , lu ... Trong tâm thức của người Chăm là quen gọi tên , không cùng họ , cùng dòng , cùng mẹ . hoặc bởi người cha. Khi người Chăm trở thành một cộng đồng dân tộc thiểu số ở Việt Nam, họ đã được công nhận hợp pháp trên các giấy tờ dân sự như giấy khai sinh, chứng minh nhân dân… và phổ biến trong gần hai thế kỷ.
Vì vậy, từ lâu trong hoàng tộc đã có họ và con mang họ mẹ, về sau có nhiều họ do yếu tố hội nhập trong xã hội Việt Nam và từ đó chế độ Mẫu hệ không còn ràng buộc trong đại đa số người Chăm. . Chẳng hạn như ông Khâm Lý Thuận, người Chăm làm quan với tên tục là “Tống Thuận” từ triều đình Huế, với người Chăm phía nam Bình Thuận là vua Chăm. Khi làm thủ tục hành chính cho người dân 5 huyện của Phan Rang, Phan Rí lấy chữ Thống trong chữ Tông có nghĩa là trại làm họ cho nhiều người cùng lúc, khẳng định người cùng họ n không có quan hệ huyết thống. Một ví dụ khác, cũng vì họ không quan trọng đối với cộng đồng người Chăm, hai anh em ruột thịt, có thể con trai lấy họ cha, con gái lấy họ mẹ.
- Chế độ mẫu
Lý do chế độ mẫu hệ tồn tại là bởi vì hầu hết mọi người đều bị chi phối bởi các quy ước cổ xưa. Con gái sinh ra và lớn lên ở bên cạnh mẹ, được thừa kế nhà cửa, tài sản và có nghĩa vụ phụng dưỡng cha mẹ. Khi người nam đến tuổi phải theo vợ và ở với vợ, nghĩa là con sinh ra trước tuổi thành niên phải theo nơi cư trú của mẹ. Con gái lớn lên vẫn tiếp tục sống như mẹ, con trai bỏ xứ ra đi. Quê cha đã trở thành quê mẹ, chính chữ “bà” đã thôi thúc những đứa con ở lại quê mẹ. Phong tục này là tập quán tự nhiên của mọi người khi có quan niệm con ở với mẹ, nhưng ở xã hội nào cũng vậy không nhất thiết phải theo khuôn phép con cái được ở với cha, mẹ do cuộc sống chi phối.
- Chế độ mô hình ủy quyền
Người phụ nữ Chăm có vai trò làm chủ mọi việc trong gia đình, mặc dù họ có thể không làm được nhiều những công việc mà nam giới phải làm, nhưng họ vẫn giữ vai trò là người chủ gia đình của 'người đàn ông'.
Người đàn ông được vợ lấy chồng, khăn gói về nhà vợ, thân phận chẳng khác gì những người vợ Việt lấy vợ thời xưa, không có luật pháp, không có quyền bình đẳng. Thời kỳ Vương quốc Chăm Pa, nước họ giỏi nghề đi biển, từng mở đường “nước hoa”, vua chúa cũng chỉ là kẻ vô gia cư, thị tộc không có chút gì gọi là danh dự. Vì, người đàn ông được trao trọng trách, được ngồi vào ghế của vua, thay cho các hoàng hậu để làm công việc của vua một nước. Các nữ hoàng sợ lợi dụng quyền lực của mình để mang đất nước trở lại với gia đình của họ. Các nữ hoàng kế vị giữ trách nhiệm hoàng gia trong việc ra lệnh cho các vị vua, mặc dù trong các vấn đề đối ngoại, nhà vua luôn là người có đủ uy tín để đại diện cho đất nước của mình. Con gái út của hoàng hậu là người sẽ làm hoàng hậu, các con gái khác là công chúa, con trai là hoàng tử, thái tử nhưng không phải là người thừa kế. Đàn ông không có quyền quyết định những việc quan trọng, nhất là trong việc phân chia tài sản. Khi ly hôn, người chồng phải gánh chịu trách nhiệm tạo ra của cải, tài sản cho gia đình đến hết đời nhưng không có quyền chia bất kỳ loại tài sản nào, người chồng được chia phần duy nhất là phần "rựa" để lại. . Một điều tốt cho một người chồng là khi vợ anh ta chết, cô em gái của anh ta là một người bảo vệ thực sự. Một người đàn ông không được phép kết hôn với một người phụ nữ khác trong cùng một gia đình với vợ mình, vì vậy ngay cả khi em trai của người đàn ông chưa kết hôn được chăm sóc, đừng nghĩ rằng anh ta sẽ được kết hợp! (Tuy nhiên, cha và con có thể kết hôn với mẹ và con, và hai anh trai có thể kết hôn với hai chị em gái.)
- Hoàn cảnh con cháu trong cộng đồng dân tộc Chăm
Con cái theo mẹ đẻ ra, quyền thừa kế thuộc về con gái, con gái nối dõi tông đường, con trai theo vợ. Con gái út có bổn phận phụng dưỡng ông bà cha mẹ, ngày giỗ của con gái chỉ có người con trai đến dự, vì trách nhiệm của người con trai là túc trực bên người phụ nữ làm vợ của người Việt Nam.
Con gái là cháu nội, con trai là cháu ngoại. Trong xã hội của người Chăm, con gái là con cháu ruột thịt, con trai, cháu chắt là ngoại tộc.
Một người vợ là một người vợ đối với gia đình chồng, nhưng là một người đàn ông đã có gia đình thì không có gánh nặng nào.
Anh em cùng cha khác mẹ có quan hệ huyết thống, thân thiết hơn anh em cùng cha khác mẹ. Con của chị em là dòng dõi bên nội, giống như con cháu của người Việt Nam.
Khi con trai lấy chồng, anh ta không còn trách nhiệm với gia đình như phụ nữ Việt Nam lấy chồng.
Tóm lại, chế độ mẫu hệ và phụ quyền có những cách thức đối lập nhau trong việc hình thành uy quyền, chuyển đổi vai trò từ nam sang nữ và ngược lại.
II. GIA PHẢ NGƯỜI CHĂM
Người Chăm cũng có gia phả từ lâu đời như người Việt nhưng không phải dòng họ nào cũng được ghi chép đầy đủ. Chỉ có hoàng tộc mới đủ tư cách và hiểu biết để ghi lại dòng họ một cách rất đầy đủ. Người nghèo thiếu cả chữ lẫn ăn nên có gia đình có gia phả, nhưng nhiều gia đình không có.
Trên đây đã trình bày câu hỏi người Chăm không trọng “của họ”, vậy dòng họ căn cứ vào đâu để viết gia phả? Người Chăm sẽ ghi gia phả từ đâu?
- Ông tổ là người đầu tiên trong gia phả, lai lịch và sự nghiệp được ghi đầy đủ nếu con cháu biết đến ông. Tổ tiên, chỉ cần ghi tên của mình, đôi khi không có gì hơn. Muốn biết tổ tiên thì phải tìm đến dòng họ mà tìm.
- Con cháu trong họ được đăng ký đầy đủ, trai hay gái theo thứ tự từ lớn đến bé, anh, chị, em.
- Con gái bắt đầu nối dõi, mỗi người con gái làm trưởng họ, trong họ này đăng ký chồng, nếu có mấy chồng thì các chồng cũng đăng ký. Các em sẽ viết theo thứ tự em lớn nhất viết trước. - Trong gia phả không có trang con trai dù người đó đã lập gia đình hay chưa, tức là con trai chỉ có tên trong gia phả của cha mẹ mình.
- Các con gái đời sau là cháu nội, khi đủ tuổi trưởng thành theo mẹ thì được ghi vào các trang gia phả sau. Trong trường hợp một đứa trẻ có anh chị em cùng cha khác mẹ, các ghi chú cũng có thể cho biết đứa trẻ đó là cha của đứa trẻ nào.
- Theo nguyên tắc này, gia phả được ghi đến đời cuối cùng vào thời điểm lập gia phả.
Con cháu mấy đời của một dòng theo họ mẹ và ngược về các đời trước trong gia phả, con của con trai là cháu, muốn biết gốc tích ông nội, cha mình có thể xem tại gia đình ngoại. gia phả và chỉ có gia phả nước ngoài mới ghi đầy đủ thông tin. Gia phả thường là văn bản ghi lại những sự việc đã có từ trước, đôi khi tài liệu được tìm thấy trong ký ức của những người lớn tuổi nên gia phả có thể được thể hiện trong giới hạn. Ông tổ trong gia phả sẽ là người trong dòng thời gian còn biết đến mình qua tài liệu ghi chép hay ký ức, để thấy cao hơn, xa hơn con cháu tại Nghĩa trang Kut, nơi thân nhân có người thân được lưu giữ và tôn kính' chồng. Ở nghĩa địa Kut chúng tôi sẽ ghi tên tổ tiên của dòng tộc trên Klaung (hộp đựng 9 mẩu xương trán), có khi chỉ có tên của tổ tiên lớn nhất chứ không có gì ở Klaung. Những gia đình có người thân ở cùng nghĩa trang Kut chắc chắn là họ hàng với nhau.
Nội dung bài viết:
Bình luận