Biến đổi khí hậu do hiệu ứng nhà kính là hiện tượng toàn cầu rất đáng lo ngại vì nó tác động mạnh mẽ đến môi trường xung quanh. Vậy hiện tượng này là gì, nó để lại tác hại gì cho con người?

1. Ý tưởng
Khí nhà kính là các khí có khả năng hấp thụ bức xạ sóng dài (hồng ngoại) phản xạ từ bề mặt Trái đất khi được ánh sáng mặt trời chiếu vào rồi bức xạ nhiệt trở lại Trái đất gây hiệu ứng nhà kính. Các khí nhà kính chủ yếu là: hơi nước, CO2, CH4, N2O, O3, CFC. Trong hệ mặt trời, bầu khí quyển của Sao Kim, Sao Hỏa và Titan cũng chứa khí nhà kính. Khí nhà kính ảnh hưởng mạnh đến nhiệt độ Trái đất, nếu không có chúng, nhiệt độ bề mặt trung bình của Trái đất sẽ lạnh hơn khoảng 33°C (59°F) so với hiện nay.
Căn cứ vào nguồn gốc, xu hướng, mức độ tuyệt đối cũng như mức độ ảnh hưởng đến tổng tiềm năng phát thải khí nhà kính của quốc gia, các nguồn phát thải được chia thành 4 nhóm chính:
Năng lượng: Là một trong những nguồn phát thải khí nhà kính lớn nhất hiện nay. Lĩnh vực này thường đóng góp hơn 90% lượng khí thải CO2 và 75% lượng khí thải nhà kính khác ở các nước đang phát triển. 95% khí trong ngành năng lượng là CO2, còn lại là CH4 và NO ở mức tương đương. Phát thải từ lĩnh vực năng lượng được chia thành 3 nhóm: Phát thải liên quan đến quá trình đốt cháy nhiên liệu hóa thạch (trong các ngành năng lượng, hoạt động giao thông vận tải...); Khí thải tức thời (tức là lượng khí và hơi do thiết bị nén thải ra do rò rỉ, không mong muốn hoặc không thường xuyên từ quá trình khai thác, chế biến, vận chuyển nhiên liệu,...); Hoạt động thu hồi và lưu trữ carbon. Trong đó, khí thải từ quá trình đốt cháy nhiên liệu hóa thạch đóng góp tới 70% tổng lượng khí thải, điển hình là khí thải từ các nhà máy điện và nhà máy lọc dầu.
Quy trình Công nghiệp và Sử dụng Sản phẩm (IPPU): Phát thải từ khu vực IPPU xảy ra trong các quy trình quy trình công nghiệp. Việc sử dụng GHG trong các sản phẩm và sử dụng carbon trong nhiên liệu hóa thạch không phải để sản xuất năng lượng. Đặc biệt, nguồn phát thải chính đến từ các quy trình công nghiệp xử lý hóa học hoặc vật lý nguyên liệu thô. Vì trong các quá trình này đã tạo ra nhiều loại KNK, bao gồm: CO2, CH4, N2O, HFCs và PFCs.
Nông nghiệp, Lâm nghiệp và Sử dụng đất (AFOLU): Các nguồn phát thải chính bao gồm: Phát thải CH4 và N2O từ chăn nuôi, trồng lúa nước, đất nông nghiệp, đốt cháy trong sản xuất nông nghiệp; Phát thải/loại bỏ CO2 trong nông nghiệp, lâm nghiệp và thay đổi sử dụng đất. Nói chung, lĩnh vực AFOLU đóng góp khoảng 30% lượng phát thải khí nhà kính toàn cầu, chủ yếu do phát thải CO2 từ thay đổi sử dụng đất (phần lớn là do nạn phá rừng nhiệt đới) và CH4, N2O từ nông nghiệp và chăn nuôi.
Chất thải: Các khí nhà kính có thể phát sinh trong lĩnh vực chất thải bao gồm: CO2, CH4 và N2O. Các nguồn sản xuất chính được ghi nhận là: chôn lấp chất thải rắn; xử lý sinh học chất thải rắn; đốt và đốt mở chất thải; xử lý và xả nước thải. Thông thường, khí thải CH4 từ các bãi chôn lấp chất thải rắn (SDDS) chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng lượng phát thải khí nhà kính của ngành. CH4 trong xả thải và xử lý nước thải cũng đóng vai trò tương đối quan trọng. Ngoài ra, hoạt động xả thải và xử lý chất thải rắn, nước thải còn làm phát sinh các hợp chất hữu cơ bay hơi không chứa metan (NMVOCs), NOx, CO và NH3. NOx chủ yếu được tạo ra trong quá trình đốt cháy chất thải, trong khi NH3 được tạo ra trong quá trình ủ phân compost. Hai hợp chất này có thể gián tiếp tạo ra N2O. Tuy nhiên, lượng N2O chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ, không đáng kể.
2. Tác động của khí nhà kính đối với trái đất
Biến đổi khí hậu dẫn đến nhiệt độ trung bình trên bề mặt Trái đất tăng lên dưới tác động của hiệu ứng nhà kính, để lại hậu quả vô cùng nghiêm trọng.
Vấn đề lớn nhất mà nhân loại phải đối mặt ngày nay là băng ở hai cực đang tan chảy. Theo các nhà khoa học, tác hại của hiệu ứng nhà kính sẽ làm tan chảy các chỏm băng khiến mực nước biển dâng cao tới 1,5m và chúng sẽ nhấn chìm các vùng ven biển, vùng đất thấp của Việt Nam cũng nằm trong vùng chịu ảnh hưởng của băng tan.
Số người bị ảnh hưởng bởi nhiệt độ cao cũng tăng lên nhanh chóng và số người chết vì các đợt nắng nóng cũng rất cao.
Hệ sinh thái biển thay đổi, bị lấn chiếm, lục địa hoang mạc hóa dần, đất đai bị xói mòn ngày càng nhiều, hạn hán kéo dài, khô cằn, diện tích rừng ngày càng thu hẹp.
Đường xích đạo sẽ không còn nắng nóng quanh năm mà dần biến thành sa mạc lớn nhất hành tinh. Thảm họa đang xảy ra ngày càng nhiều.
3. Hiện trạng phát thải khí nhà kính ở Việt Nam
Nhận thức được tầm quan trọng của việc giảm phát thải khí nhà kính toàn cầu cũng như hiểu rõ mức độ tác động của nó đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, Việt Nam đã ủng hộ Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu và tích cực tham gia các hiệp định pháp lý liên quan đến giảm nhẹ biến đổi khí hậu. Cụ thể, Việt Nam ký Công ước Khí hậu năm 1992, phê chuẩn năm 1994; ký Nghị định thư Kyoto năm 1998 và phê chuẩn năm 2002; thành lập Ban chỉ đạo quốc gia thực hiện Công ước khí hậu và Nghị định thư Kyoto; gửi Ban Thư ký Công ước Khí hậu Thông báo quốc gia lần thứ nhất (2003), Thông báo quốc gia lần thứ hai (2010), Báo cáo cập nhật hai năm một lần lần thứ nhất (2014), phản ánh những nỗ lực cho đến những nỗ lực cuối cùng trong ứng phó với BĐKH và kiểm kê KNK.
Về nội dung kiểm kê KNK, Việt Nam đã tiến hành kiểm kê KNK quốc gia vào năm 2010, tiến hành từ năm 2013 đến năm 2014 trong khuôn khổ Dự án “Tăng cường năng lực kiểm kê quốc gia khí nhà kính tại Việt Nam” (2010-2014) do Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản tài trợ. (JICA). Năm 2010, tổng lượng phát thải khí nhà kính của Việt Nam là 246,8 triệu tấn CO2 tương đương bao gồm sử dụng đất, thay đổi sử dụng đất và lâm nghiệp (LULUCF) và 266 triệu tấn CO2 tương đương không bao gồm LULUCF. Trong giai đoạn 1994 - 2010, tổng lượng phát thải KNK của Việt Nam (bao gồm cả LULUCF) tăng nhanh từ 103,8 triệu tấn lên 246,8 triệu tấn CO2 tương đương, trong đó năng lượng là lĩnh vực tăng nhanh nhất với 25,0,6 triệu tấn lên 141 triệu tấn CO2 tương đương.
Tình hình phát thải trong từng lĩnh vực của Việt Nam như sau:
Năng lượng
Trong lĩnh vực năng lượng của Việt Nam, KNK chủ yếu được phát thải thông qua quá trình đốt cháy nhiên liệu và phát thải trong quá trình khai thác, vận chuyển. Tổng lượng phát thải KNK trong lĩnh vực năng lượng năm 2013 là 151,4 triệu tấn CO2 tương đương. Trong đó, hoạt động đốt cháy nhiên liệu thường xảy ra trong các ngành: sản xuất điện, công nghiệp và xây dựng, giao thông vận tải, nông lâm ngư nghiệp và một số ngành khác. Đây là hoạt động chính tạo ra khí nhà kính, chiếm khoảng 86,1% tổng lượng phát thải khí nhà kính quốc gia (MONRE 2017). Bên cạnh đó, với việc tiêu thụ một lượng lớn nhiên liệu (chiếm khoảng 60% tổng lượng nhiên liệu tiêu thụ), hoạt động giao thông vận tải cũng phát thải một lượng lớn KNK vào khí quyển. Hiện nay, trung bình mỗi năm ngành giao thông vận tải thải ra môi trường khoảng 30 triệu tấn CO2 tương đương. Lượng phát thải tăng nhanh qua các năm, từ 12,58 triệu tấn (năm 2000) lên 29,7 triệu tấn CO2 tương đương (năm 2013). Trong đó, khí thải giao thông đường bộ chiếm 90,9%; phát thải đường sắt, sông và không khí chiếm gần 10%. Ngành hàng không dân dụng cũng có lượng phát thải khí nhà kính đáng kể và ngày càng tăng.
Quy trình và sản phẩm công nghiệp
Đối với các quy trình công nghiệp, các loại hình sản xuất phát sinh KNK chủ yếu là: sản xuất xi măng, sản xuất vôi, sản xuất amoni và sản xuất gang thép. Tổng lượng phát thải KNK trong sản xuất công nghiệp năm 2013 là 31,8 triệu tấn CO2 tương đương. Trong đó, ngành xi măng có lượng phát thải lớn nhất, chiếm khoảng 88,8% tổng lượng phát thải từ sản xuất công nghiệp. Đây là một ngành sử dụng nhiều năng lượng, tạo ra nhiều khí thải do yêu cầu về nhiệt độ cực cao.
Nông nghiệp
Theo kết quả kiểm kê KNK năm 1994 của Bộ Tài nguyên và Môi trường, lượng phát thải KNK trong lĩnh vực nông nghiệp là 52,45 triệu tấn CO2 tương đương - chiếm 50,5% tổng lượng phát thải KNK của cả nước. . Năm 2013, lượng phát thải KNK trong lĩnh vực này là 89,4 triệu tấn CO2 tương đương, chiếm 34,5% tổng lượng phát thải KNK của cả nước. Trong đó, lĩnh vực trồng lúa và đất nông nghiệp phát thải nhiều nhất, chiếm lần lượt 50% và gần 27% tổng lượng phát thải của ngành nông nghiệp năm 2013 (MONRE 2017).
Sử dụng đất, thay đổi sử dụng đất và lâm nghiệp:
Theo Hướng dẫn thực hành tốt về sử dụng đất, thay đổi sử dụng đất và lâm nghiệp năm 2003, đất ở Việt Nam được phân thành 6 loại, bao gồm: đất lâm nghiệp, đất trồng trọt, đồng cỏ và đất ngập nước, đất thổ cư và các loại đất khác. Phát thải/loại bỏ KNK trong lĩnh vực này là quá trình thay đổi trữ lượng carbon trong: i) sinh khối trên mặt đất và dưới mặt đất; ii) chất thải hữu cơ (cây chết, lá rụng) và iii) đất. Lĩnh vực LULUCF đã chuyển dần từ phát thải KNK sang hấp thụ KNK từ năm 2010. Lượng phát thải KNK trong lĩnh vực này đã giảm từ 19,4 triệu tấn (năm 1994) xuống còn 15,1 triệu tấn CO2 tương đương (Năm 1994). Trong khi đó, lượng hấp thụ khí nhà kính đã tăng lên 34,2 triệu tấn CO2 tương đương vào năm 2013 do rừng và đất trồng trọt là nguồn cung cấp CO2 tương đương lớn nhất (MONRE 2017).
Rác thải
Tại Việt Nam, trong những năm gần đây, mỗi năm có hơn 15 triệu tấn chất thải rắn được thải ra từ các nguồn khác nhau, trong đó hơn 80% là từ các đô thị. Tuy nhiên, mới chỉ có hơn 70% chất thải rắn ở đô thị và khoảng 20% ở nông thôn được thu gom và xử lý. Trong khi phát thải KNK từ lĩnh vực này chủ yếu bao gồm: Phát thải CH4 từ các bãi chôn lấp chất thải rắn được thu gom; nước thải công nghiệp và nước thải sinh hoạt; phát thải N2O từ bùn thải sinh hoạt; Khí thải CO2 và N2O từ quá trình đốt rác thải.
Nhìn chung, phát thải từ lĩnh vực chất thải chiếm một tỷ lệ nhỏ. Tổng lượng phát thải KNK từ lĩnh vực này năm 2013 là 20,7 triệu tấn CO2 tương đương, chiếm 7% tổng cơ cấu phát thải quốc gia. Trong đó, nước thải đô thị chiếm tỷ trọng phát thải KNK lớn nhất, chiếm 45,6%. Khí thải CH4 từ các bãi chôn lấp chiếm 35,9% (MONRE 2017).
Việt Nam hiện đang đẩy mạnh sử dụng năng lượng tái tạo như điện mặt trời ở dạng công nghiệp nhằm giảm phát thải khí nhà kính, đặc biệt là tại Thành phố Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh, Hà Nội - những nơi có hàm lượng khí nhà kính cao. Xây dựng và triển khai các dự án hạn chế phát thải khí nhà kính trong các lĩnh vực: quy hoạch đô thị, năng lượng, giao thông, công nghiệp, quản lý nước, quản lý chất thải, xây dựng, y tế, công nghiệp nông nghiệp và du lịch.
Nội dung bài viết:
Bình luận