1. Tính tất yếu khách quan của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng:
Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng luôn gắn liền với sự phát triển không ngừng của sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo. Trước sự phát triển của những điều kiện khách quan, Đảng phải tự mình sửa sai, tự đổi mới để vươn lên đảm đương trọng trách của mình trước giai cấp và dân tộc. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương, trước hết phải xây dựng, chỉnh đốn Đảng.
Đồng chí nhấn mạnh Đảng sống trong xã hội, là một bộ phận cấu thành của xã hội. Tổ chức Đảng và mỗi cán bộ, đảng viên các cấp, các vị trí công tác đều chịu sự tác động của môi trường, quan hệ xã hội, cả mặt tốt và mặt xấu, mặt tích cực, tiến bộ và tiêu cực, lạc hậu. Vì vậy, tổ chức đảng và mỗi cán bộ, đảng viên phải thường xuyên rèn luyện. Đảng phải thường xuyên quan tâm đến công tác chỉnh đốn Đảng.
Về phát triển bản thân, xây dựng, chỉnh đốn đảng, theo tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành yêu cầu tu sửa, làm trong sạch nhân cách của mỗi cán bộ, đảng viên.
Đảng đã trở thành Đảng cầm quyền thì công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng càng phải được thực hiện thường xuyên hơn. Người nhấn mạnh: Quyền lực có tính chất hai mặt.
Một mặt, quyền lực có sức mạnh to lớn để cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới nếu được sử dụng đúng mức.
Mặt khác, quyền lực cũng có sức tàn phá to lớn nếu người nắm giữ quyền lực bị suy thoái, biến chất, biến quyền lực của nhân dân thành đặc quyền cá nhân...
2. Xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng:
Chúng ta phải dựa vào những lý luận khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin để xây dựng Đảng vững mạnh về tư tưởng và lý luận. Hồ Chí Minh lưu ý: việc học tập, nghiên cứu và tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin phải luôn phù hợp với từng quần chúng. Việc vận dụng những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin phải luôn phù hợp với từng hoàn cảnh cụ thể của nước ta trong từng thời đại. Trong quá trình hoạt động, Đảng ta cần cẩn trọng học tập và kế thừa những kinh nghiệm tốt của các đảng cộng sản khác, đồng thời tổng kết kinh nghiệm để bổ sung cho chủ nghĩa Mác - Lênin. Đảng ta phải tăng cường đấu tranh bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin. Đồng thời, phải thường xuyên tổng hợp thực tiễn, hoàn thiện và phát triển lý luận để giải quyết đúng đắn những vấn đề đặt ra trong quá trình lãnh đạo của Đảng. Các nghị quyết của Đảng được xây dựng và thực hiện thành công sẽ ngày càng làm sáng tỏ những vấn đề mới trong thực tiễn, bổ sung, hoàn thiện đường lối của Đảng. Nội dung xây dựng Đảng về chính trị bao gồm: xây dựng đường lối chính trị, chủ trương chính trị, xây dựng và thực hiện nghị quyết, xây dựng và phát triển bản lĩnh chính trị, củng cố lập trường chính trị và nhận thức chính trị. bản lĩnh chính trị... Ở nội dung trên, theo Hồ Chí Minh, lãnh đạo chính trị là vấn đề then chốt trong sự tồn tại và phát triển của Đảng. Người cảnh báo nguy cơ mắc sai lầm trong lãnh đạo chính trị, gây hậu quả nghiêm trọng đối với vận mệnh của Tổ quốc, sinh mệnh chính trị của hàng triệu đảng viên và người lao động.
Đảng phải giáo dục đường lối, chính sách của Đảng, thông tin thời sự cho cán bộ, đảng viên để họ luôn giữ vững lập trường, giữ vững bản lĩnh chính trị trong mọi hoàn cảnh.
3. Công tác tổ chức xây dựng Đảng:
Về hệ thống tổ chức của Đảng, Hồ Chí Minh khẳng định sức mạnh của Đảng là từ tổ chức. Hệ thống tổ chức của Đảng từ Trung ương đến cơ sở phải hết sức chặt chẽ, kỷ luật cao. Sức mạnh của các tổ chức có quan hệ mật thiết với nhau, mỗi cấp tổ chức có chức năng, nhiệm vụ riêng.
Trong hệ thống tổ chức đảng, Hồ Chí Minh rất coi trọng vai trò của chi bộ. Chi bộ là tổ chức trung tâm, quyết định chất lượng lãnh đạo của Đảng; Đó là môi trường tu dưỡng, rèn luyện, đồng thời cũng là nơi giám sát đảng viên. Chi bộ có vai trò quan trọng trong đầu mối liên lạc giữa Đảng với nhân dân. Đối với công tác cán bộ, Người luôn quan tâm xây dựng, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên có đức, có tài. Hồ Chí Minh nhận thức rất rõ vị trí, vai trò của cán bộ đối với sự nghiệp cách mạng. Theo Người: “Dân vận là người giải thích đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước cho dân hiểu, dân hiểu và thi hành. Đồng thời, đem tình hình của người dân báo cáo với Đảng, Chính phủ để hiểu cặn kẽ, đề ra chủ trương đúng đắn. Vì vậy, cán bộ là cái gốc của mọi công việc. Vì vậy, công tác đào tạo cán bộ là công việc gốc của Đảng”.
"Nhắc nhở lãnh đạo đừng làm như 'giã gạo'. Nói cách khác, trước khi bắt đầu không suy nghĩ kỹ. Nhắc nhở thì không giúp đỡ. Khi họ mắc sai lầm thì đẩy họ xuống. Khi họ mắc sai lầm, hãy hạ thấp họ, chờ đợi họ làm tốt thì nuôi. Theo Người, “Đảng phải rèn luyện cán bộ, như người làm vườn chăm cây quý. Phải trọng nhân tài, trọng cán bộ, trọng mỗi người có ích cho công việc chung". sự khâm phục của quần chúng.Lại nữa, xem nó có giá trị gì.Người tài mà sử dụng tài của họ không đúng cách thì sẽ không có kết quả. Nếu thăng tiến không cẩn thận, tất yếu sẽ đưa những kẻ ba lô chỉ biết nói mà không biết làm vào các vị trí quản lý. Nó rất có hại."
Đặc biệt, Hồ Chí Minh phê phán mạnh mẽ việc đề bạt, bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo cấp bộ, địa phương “dân làm quan cả nhờ vả”. Người viết: “Có đồng chí còn giữ thói ‘một người làm quan’, đặt người thân, bạn bè vào vị trí đó dù được hay không, hỏng việc cũng chẳng sao. , ban nhạc chấp nhận nó, chỉ là phụ huynh và bạn bè có vị trí như thế nào." “Tự mình kéo bè, kéo cánh, họ hàng bạn bè, không tài cán gì, đều kéo vào vị trí này. Người có tài có đức mà bất mãn với mình thì bị đuổi học. Quên đi, công việc là việc công, không phải việc riêng của ai cả". Vì vậy, Người khuyên: "Cứ nhắc nhở cán bộ điều hành thì phải vì công việc, vì tài năng của mình, động viên các đồng chí khác hăng hái hơn. Như vậy, một số công việc xoay vòng. Nếu vì lòng yêu ghét, vì họ hàng, vì nể nang thì không ai nghe theo, mà sẽ gây rối ren trong Đảng. Đó là tội ác với Đảng, tội ác với đồng bào…”.
4. Xây dựng Đảng về đạo đức:
Đảng là đạo đức, văn minh thì Đảng mới trong sạch, vững mạnh. Trong 12 điều về xây dựng Đảng chân chính cách mạng, Người nhấn mạnh Đảng là tổ chức cách mạng, không phải là tổ chức để “làm quan phát tài”. Nếu không, Đảng sẽ rơi vào tình trạng thoái hóa, biến dạng, xa rời, xa rời nhân dân và mất khả năng tự bảo vệ mình. Quyền lực này là của nhân dân, do nhân dân xây dựng và phát triển.
Đồng chí cho rằng: Xây dựng Đảng về đạo đức là cơ hội để mỗi cán bộ, đảng viên rèn luyện, giáo dục, tu dưỡng tốt hơn, hoàn thành nhiệm vụ Đảng và Nhân dân giao phó, nhất là giữ gìn đạo đức cách mạng. Cán bộ, đảng viên không phải là thần thánh. Họ là con người, ai cũng có hai mặt, tốt - xấu, thiện - ác, thường xuyên đấu đá lẫn nhau. Trong điều kiện môi trường tốt, nếu cán bộ, đảng viên ra sức tu dưỡng, phấn đấu, rèn luyện thì mặt tốt, mặt tốt sẽ xuất hiện, đẩy lùi cái xấu, cái ác và ngược lại.
Hồ Chí Minh đưa ra tiêu chí của một bộ khung tốt, tức là bộ khung đó phải có cả đức và tài. Trong đó, đạo đức là gốc, Người viết: “Cũng như sông thì có nguồn, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, nếu không có gốc cây sẽ khô héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”.
5. Về nguyên tắc tổ chức sinh hoạt đảng:
5.1. Nguyên tắc tập trung dân chủ:
Nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản trong xây dựng Đảng. Nguyên tắc này thể hiện sự thống nhất hữu cơ và biện chứng giữa “tập trung” và “dân chủ”. Mặt này là điều kiện của mặt kia và ngược lại, về mối quan hệ giữa “tập trung” và “dân chủ” Hồ Chí Minh khẳng định: tập trung trên cơ sở dân chủ và dân chủ dưới sự lãnh đạo của tập trung là cơ sở của tập trung. Nếu không có sự gắn kết, thống nhất sẽ dẫn đến độc đoán chuyên quyền, tự do vô tổ chức, phóng túng. Tuy nhiên, “tập trung hóa” và “dân chủ” có nội dung cụ thể.
“Tập trung” là thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, đảng viên chấp hành nghị quyết của Đảng một cách vô điều kiện. Từ khi làm Đảng ta “tuy đông mà đánh chỉ có một người”.
Theo Hồ Chí Minh, dân chủ là tài sản quý nhất của nhân dân, là thành quả của cuộc cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng. Dân chủ là sự thể hiện tư tưởng phải được tự do. Tự do là gì? Trong mọi vấn đề, mọi người đều có quyền tự do phát biểu ý kiến và đóng góp vào việc tìm kiếm sự thật. Đó là quyền, nhưng cũng là nghĩa vụ của mọi người. Khi con người đã bày tỏ chính kiến của mình, đã tìm ra chân lý thì tự do tư tưởng trở thành tự do phục tùng chân lý. Hồ Chí Minh nhấn mạnh việc thực hiện và phát huy dân chủ nội bộ, vì không có dân chủ nội bộ thì làm cho “trong Đảng lục đục”. Hơn nữa, chỉ có dân chủ trong Đảng mới được coi là dân chủ trong xã hội, mới định hướng cho việc xây dựng nền dân chủ thực sự.

chấp hành nguyên tắc tổ chức sinh hoạt đảng
5.2. Nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân chịu trách nhiệm:
Tập thể lãnh đạo, cá nhân chịu trách nhiệm là nguyên tắc lãnh đạo hay phương thức lãnh đạo của Đảng. Nguyên tắc này cũng có hai mặt liên quan mật thiết với nhau, gần với nguyên tắc tập trung dân chủ vì tập thể chỉ đạo là dân chủ, cá nhân lãnh đạo là tập trung. Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách là tập trung dân chủ. Người viết: “Tại sao chúng ta cần một đội ngũ quản lý? Bởi vì một người dù thông minh, tài giỏi đến đâu, dù kinh nghiệm đến đâu cũng không thể chỉ nhìn, xét một hay nhiều khía cạnh của một vấn đề, không thể nhìn, xét tất cả các khía cạnh của một vấn đề. . Vì vậy cần rất nhiều người. Rất nhiều người có rất nhiều kinh nghiệm. Có người thấy rõ bên này, có người thấy rõ bên kia. Với kinh nghiệm và sự cân nhắc của nhiều người, vấn đề là hiển nhiên từ mọi phía. Nhưng nếu nhìn rõ mọi mặt thì vấn đề sẽ được giải quyết thấu đáo, không sai sót”.
Người phụ trách bắt đầu bằng việc thảo luận nhóm kỹ lưỡng, lập kế hoạch rõ ràng, sau đó cử người hoặc nhóm người phụ trách thực hiện kế hoạch đó, phân định rõ trách nhiệm và phát huy vai trò của từng cá nhân. Người viết: “Việc đã được nhiều người bàn sâu, kế hoạch rõ ràng, cần giao cho một người hoặc một nhóm nhỏ phụ trách, kế hoạch này mới được thực hiện. Chuyên môn mới, công việc mới thực hiện. Nếu không có cá nhân chịu trách nhiệm thì sẽ có chuyện người này ủy cho người kia, người này ủy cho người kia, kết quả là không ai thực hiện. Như vậy thì cũng chẳng xong”. Trong khi vận dụng nguyên tắc phải chống bệnh chuyên quyền, hay ngược lại, dựa dẫm vào tập thể, không dám khẳng định mình, không dám nhận mình, Hồ Chí Minh nói: "Lãnh đạo là không tập thể nên sẽ đi đến bao biện, cửa quyền, chủ quan. Kết quả là một thất bại. Bị quy trách nhiệm mà không chịu trách nhiệm cá nhân thì sẽ dẫn đến tệ nạn mù quáng, hỗn loạn, vô chính phủ. Đó cũng là một sự thất bại. Đội ngũ quản lý và người chịu trách nhiệm phải luôn song hành với nhau.
5.3. Nguyên tắc tự phê bình và phê bình:
Tự phê bình và phê bình là nguyên tắc sinh hoạt của Đảng, là quy luật phát triển Đảng. Ý nghĩa của nguyên tắc này là Đảng cũng ở trong xã hội, nên có những bệnh trong xã hội thấm vào Đảng. Cá nhân đảng viên, cán bộ cũng là con người, trong lòng có cái tốt, cái xấu, thiện và ác. Con người không phải là thượng đế, ai cũng có khuyết điểm. Vì vậy, tự phê bình và phê bình giống như việc rửa mặt hàng ngày, làm cho phần tốt trong mỗi người nở hoa như hoa mùa xuân, phần xấu phai đi. Cán bộ, đảng viên có lỗi như người bệnh. Vậy uống thuốc đi. Tự phê bình là thuốc đắng nhưng chữa được bách bệnh. Ngược lại, nếu không tự phê bình thì giống như người bệnh không uống thuốc, để bệnh ngày càng nặng thêm. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Đảng nào che giấu khuyết điểm là Đảng hư. Đảng có gan nhận khuyết điểm của mình, nói rõ khuyết điểm là gì, từ đâu đến, xem xét rõ hoàn cảnh làm phát sinh khuyết điểm đó, rồi tìm mọi cách để sửa chữa. Đó là một đảng tiến bộ, táo bạo, an toàn và chân chính.
Tự phê bình và phê bình nhằm làm cho Đảng vững mạnh, cán bộ, đảng viên tiến bộ, để chữa các bệnh của Đảng. Đó cũng là một trong những cách tốt nhất để thực hành dân chủ rộng rãi trong Đảng, giữ vững và nâng cao uy tín của Đảng.
Tuy nhiên, một điều hết sức quan trọng là con đường tự phê bình và phê bình. Hồ Chí Minh thường căn dặn tự phê bình thường xuyên, nghiêm túc và tự phê bình trên cơ sở thân ái, tương ái. Trong phê bình và tự phê bình phải trung thực, thẳng thắn, không nể nang, không che giấu, thêm bớt khuyết điểm. Phê bình và tự phê bình là khoa học và nghệ thuật. Vấn đề không phải lúc nào cũng vận dụng mà còn phải vận dụng khéo léo phê bình và tự phê bình. Cán bộ quản lý, lãnh đạo chủ chốt phải gương mẫu tự phê bình và phê bình. Cần hết sức đấu tranh với những biểu hiện không đúng mực trong phê bình và tự phê bình như: thiếu trung thực, che giấu khuyết điểm, ngại phê bình, không dám phê bình, nể nang, né tránh, “dĩ hòa vi quý” hay lợi dụng. phê bình để vu khống, bôi nhọ, đả kích, trù dập người khác.
5.4. Nguyên tắc kỷ luật nghiêm minh, tự giác:
Sức mạnh của một tổ chức và của mỗi đảng viên bắt nguồn từ ý thức tổ chức nghiêm minh, tự giác. Tính nghiêm minh của kỷ luật Đảng đòi hỏi mọi tổ chức Đảng, mọi Đảng viên phải bình đẳng trước Điều lệ Đảng, pháp luật của Nhà nước và mọi quyết định của Đảng. Đồng thời, Đảng ta là tổ chức của những người tự nguyện đấu tranh vì lý tưởng cộng sản nên tính tự giác kỷ luật là yêu cầu bắt buộc đối với mọi tổ chức đảng và đảng viên. Tính nghiêm túc, tự giác đòi hỏi Đảng viên phải gương mẫu trong cuộc sống và trong công việc. Uy tín của Đảng bắt nguồn từ sự tự giác gương mẫu của mỗi Đảng viên trong việc tự nguyện chấp hành kỷ luật của Đảng, của Nhà nước và của các đoàn thể nhân dân.
5.5. Nguyên tắc đoàn kết thống nhất trong Đảng:
Đoàn kết thống nhất phải dựa trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin của Đảng; cương lĩnh, điều lệ Đảng; Đường lối, quan điểm của Đảng; nghị quyết của tổ chức đảng các cấp.
Để đoàn kết, thống nhất, phải thực hành dân chủ rộng rãi trong Đảng, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình, thường xuyên tu dưỡng đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân và các biểu hiện tiêu cực khác. “Các đồng chí Ban Chấp hành Trung ương ở các chi bộ phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ con ngươi của mắt mình”. Có đoàn kết tốt thì mới tạo ra cơ sở vững chắc để thống nhất ý chí và hành động, làm cho “Đảng ta tuy nhiều người mà đánh thì chỉ như một người.
Nội dung bài viết:
Bình luận