Cán bộ tham mưu là gì

  1. Khái niệm  công việc tư vấn 

 Tư vấn là một loại nhiệm vụ, hoạt động  chuyên môn, toàn thời gian của  cá nhân hoặc bộ phận của tổ chức, phục vụ  lãnh đạo trong việc ra quyết định và tổ chức thực hiện quyết định. Bộ phận tham mưu được xây dựng đúng với chức năng giúp người lãnh đạo ra quyết định  chính xác, hợp lý, đạt hiệu quả cao, cũng như nâng cao hiệu quả của tổ chức trong việc tổ chức thực hiện  quyết định.  

Khái niệm về công tác tham mưu? Tổ chức bộ máy tham mưu của cơ quan hành  chính Nhà nước?

  1. Công tác tham mưu của  cán bộ, công chức 

 Công tác tư vấn chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng trong sự phát triển của các cơ quan, tổ chức. Tư vấn là phương án, kiến ​​nghị, đề xuất, hiến tặng những ý tưởng độc đáo, sáng tạo có cơ sở khoa học,  sáng kiến, giải pháp tối ưu,  chiến lược, sách lược, giải pháp  hiệu quả để người đứng đầu cơ quan, đơn vị trong việc xác định và tổ chức thực hiện kế hoạch công tác ngắn hạn, dài hạn và hàng năm của cơ quan, đơn vị mình đạt kết quả tốt nhất. Người làm cố vấn ngày xưa gọi là cố vấn, quân sư,  là  người hiến kế cho  vua, cho thủ lĩnh; trong trận chiến, lập kế hoạch để tấn công trận chiến. Từ định nghĩa trên, trong việc thực hiện chức năng nhiệm vụ của công chức, viên chức (CCVC) có thể phân thành hai loại tham mưu: tham mưu đột xuất và tham mưu chiến lược. Tham mưu công tác là tham mưu giải quyết những công việc hàng ngày, những vấn đề phát sinh trong khuôn khổ  chính sách, quy định của Đảng và Nhà nước. Tham mưu chiến lược bao gồm tham mưu phát triển tổ chức, tham mưu  đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của cơ quan, nâng cao chất lượng tổ chức, tham mưu  xây dựng chính sách, pháp luật ngày càng tốt hơn, đáp ứng nhu cầu và mong muốn ngày càng cao của nhân dân.  Đánh giá chung từ kết quả khảo sát của IARC như sau: Năng lực tham mưu của công chức cơ bản đáp ứng yêu cầu, nhất là đối với việc tham mưu các vấn đề liên quan đến công việc được giao cho công chức, trong đó, phần tham mưu liên quan đến chương trình CCHC được đánh giá là có kết quả tốt. 

  Về cơ bản, cán bộ tham mưu theo nhiệm vụ  được giao liên quan đến việc tổ chức thực hiện tốt  chủ trương, chỉ thị, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước. Ban cơ bản đáp ứng yêu cầu giải quyết  công việc hàng ngày. Tuy nhiên, công tác tham mưu của CCVC chủ yếu trong phạm vi công việc được giao, ít người nỗ lực nghiên cứu để tham mưu cho sự phát triển của cả hệ thống, tạo ra những thay đổi, cải cách mang tính chiến lược, tạo đột phá trong công việc. Thông thường, việc tham mưu này chỉ có lãnh đạo đơn vị thực hiện, nhưng do đội ngũ cán bộ công chức chưa thực hiện tốt vai trò tham mưu của mình nên vai trò tham mưu của thủ trưởng cũng bị hạn chế. Vì vậy, năng lực tham mưu  chiến lược của CCVC còn hạn chế. Kết quả khảo sát cho thấy, 58,9% công chức và 46,4% viên chức tham gia khảo sát cho rằng mình còn những đóng góp hạn chế cho sự phát triển của tổ chức và xã hội; 1% công chức cảm thấy bản thân  không  đóng góp được gì cho sự phát triển của tổ chức và xã hội. Những con số này cho thấy năng lực tham mưu chiến lược còn nhiều hạn chế và chất lượng tham mưu chiến lược của CCVC chưa đạt yêu cầu trong bối cảnh hội nhập quốc tế với nhiều áp lực  thay đổi như hiện nay.  

 

 

 

  1. Xác định quy mô tổ chức bộ máy tham mưu 

 Xét về quy mô và vị trí của  đối tượng phục vụ lãnh đạo, quản lý và nhân sự, có thể thấy quy mô của đội ngũ tư vấn là không giống nhau. Có 3 cấp độ nhân sự từ quy mô  nhỏ đến quy mô lớn, đó là: 

 

 (1) Cố vấn cá nhân: có một viên chức giữ chức vụ phó cho  trưởng ban, chuyên tổ chức xử lý thông tin và trình bày các đề xuất với trưởng ban về các hoạt động trong một lĩnh vực chuyên môn cụ thể. Hoạt động tư vấn cần sự sáng tạo, do đó luôn đòi hỏi dấu ấn cá nhân, không thể bỏ qua vai trò của cá nhân trong việc lựa chọn phương án, giải pháp cho vấn đề. 

  Một trong những thiếu sót của mô hình cố vấn cá nhân là dấu ấn của một cá nhân rõ ràng có thể ảnh hưởng đến các quyết định hành chính, thậm chí có thể là cả một hệ thống các quyết định tại một thời điểm nhất định. 

 Những hạn chế về tính cách và trình độ của từng cá nhân tư vấn có thể làm giảm tính khách quan của phương án tư vấn. Nhìn chung, mô hình nhỏ (một người) áp dụng riêng cho các vị trí quản lý cấp thấp. Đối với quản lý cấp trung  và cấp cao có thể áp dụng mô hình này  nhưng sẽ  kết hợp với các mô hình và quy mô khác. 

  (2) Bộ phận hoặc đơn vị tư vấn: là bộ phận hoặc đơn vị thuộc cơ cấu tổ chức của cơ quan, chuyên xử lý thông tin, đề xuất ý kiến ​​với nhà quản lý về hoạt động trong một lĩnh vực chuyên môn cụ thể. Thang đo có chia đơn vị tham vấn là thang đo thông dụng và phù hợp. 

 

 Các ủy viên hội đồng phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung kế hoạch hiệp thương khi  được Trưởng ban phê duyệt. Tất nhiên, những người khác nhau trong bộ  tham mưu sẽ chịu trách nhiệm về những mặt khác nhau của một quyết định hành chính, nhưng để  một quyết định hoàn chỉnh phải có sự phối hợp chặt chẽ trong việc ra quyết định và thực hiện quyết định giữa những người trong bộ máy tham mưu với vai trò là người chịu trách nhiệm chính.  Với  trách nhiệm cao như vậy, đòi hỏi đội ngũ tư vấn phải có sự phối hợp ăn ý, đồng bộ bên cạnh sự đề cao vai trò của từng cá nhân. Với đặc điểm  trên, quy mô phòng ban sẽ phù hợp với hầu hết các vị trí quản lý cấp trung  và một số vị trí cấp cao. 

  3) Cơ quan tư vấn: cơ quan chuyên môn chuyên nghiên cứu, đề xuất các dự thảo quyết định cho các nhà quản lý trong lĩnh vực chuyên môn cụ thể. Trong bộ máy hành chính, thang đo này được thể hiện ở bộ máy các phòng, ban... Thang đo này bao gồm  người đứng đầu phụ trách đơn vị, những người phụ trách các lĩnh vực sau. Tuy nhiên, quy trình hoạt động của bộ máy tư vấn này có thể linh hoạt. Ngoài trách nhiệm chung của người lãnh đạo, những người chuyên trách phụ trách những công việc cụ thể còn có thể tham mưu trực tiếp  cho người lãnh đạo trong những tình huống cụ thể cụ thể. 

  Quy mô  một cơ quan có nhiệm vụ tham mưu, xử lý thông tin và trình lãnh đạo phê duyệt các quyết định, chính sách lớn. Mô hình này được áp dụng chủ yếu cho đội ngũ cán bộ  văn phòng  trung ương và  tỉnh.  

 

 Theo Nghị định số 24/2017/NĐ-CP ngày 04/4/2014 của Chính phủ về tổ chức các cơ quan chuyên môn  thuộc UBND cấp tỉnh, quy mô này trước đây  áp dụng cho mô hình chính phủ tham mưu, nay  áp dụng cho hệ thống hành chính cấp tỉnh. 

 Cách mạng công nghiệp 4.0 cho phép ứng dụng công nghệ để xây dựng hệ thống thông tin dự báo, xử lý dữ liệu và kết nối toàn hệ thống, thống nhất  xây dựng và thực thi chính sách. Việc xác định quy mô của tổ chức tư vấn cần hợp lý đối với từng cấp, đồng thời phát huy vai trò của cá nhân và vai trò của tổ chức trong việc bảo đảm trách nhiệm giải trình về kết quả tư vấn. 

 

 

  1. Xác định vị trí pháp lý và trách nhiệm của tư vấn 

 Cần phân biệt chức năng tham mưu và chức năng điều hành trong hoạt động quản lý nhà nước nhằm tạo tính khách quan cho nội dung văn bản quy phạm pháp luật. Đối với cơ quan nhà nước, nội dung của các chính sách được ban hành có ảnh hưởng cực kỳ quan trọng đến hoạt động kinh tế - xã hội của đất nước. 

  Một trong những yêu cầu chính của VBQPPL là yêu cầu về tính khách quan. Trong các cơ quan có thẩm quyền  ban hành văn bản quy phạm pháp luật có sự tách bạch rõ ràng giữa bộ phận tham mưu và bộ phận làm nhiệm vụ quản lý nhà nước. 

  Ví dụ, trong cơ cấu tổ chức  của một bộ có các vụ, cục. Cục là đơn vị thuộc Bộ, giúp Bộ tham mưu, ban hành các chính sách như tiêu chuẩn,  thủ tục hành chính..., còn Cục là cơ quan  thuộc Bộ, có tư cách pháp nhân, được Bộ ủy quyền thực hiện hoạt động quản lý nhà nước về một lĩnh vực cụ thể với các hoạt động như cấp phép, kiểm tra, xử phạt... 

 

 

 Như vậy,  giai đoạn trước đã có sự tách bạch rõ ràng giữa chức năng tham mưu và thực hiện ở cấp bộ, nhưng ở cấp trên chưa tách bạch rõ ràng. Do đó, việc triển khai các văn bản quy phạm pháp luật của chúng ta thường gặp vướng mắc, chồng chéo về trách nhiệm quản lý giữa các bộ, ngành. Cơ quan quản lý né tránh nhiều vấn đề  nổi cộm do e ngại thực thi hoặc  ảnh hưởng đến lợi ích tập thể. Phù hợp với những quy định mới về thủ tục hành chính và  ban hành văn bản quy phạm pháp luật, văn bản quy phạm pháp luật quy định tại Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015, Nghị định số 63/2010/NĐ-CP ngày 08 tháng 6 năm 2010 của Chính phủ về kiểm soát thủ tục hành chính và Nghị định số 92/2017/NĐ-CP ngày 07 tháng 8 năm 2017 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 63/2010/NĐ -CP về cải cách, kiện toàn thủ tục hành chính, điều kiện thực hiện thủ tục hành chính Như Quốc hội, Chính phủ quy định rõ giới hạn thẩm quyền điều tiết của các bộ ngành nhằm chỉ đạo cụ thể phương thức thực hiện thủ tục hành chính, giảm thiểu  đầu mối quản lý. Các sở, trong phạm vi quyền hạn quản lý hạn chế của mình, cũng thực hiện các chức năng tư vấn chuyên biệt cho chính phủ.  

 Hoàn thiện quy trình tư vấn và xác định trách nhiệm cá nhân của tư vấn. Việc xây dựng và thực hiện đúng quy trình  tham mưu góp phần quan trọng  bảo đảm vị trí, vai trò, trách nhiệm tham mưu và bảo đảm  chất lượng của các quyết định quản lý hành chính nhà nước. 

 

  Quy trình tư vấn kỹ thuật cần được đảm bảo bởi: có thể chế rõ ràng, quy định bằng văn bản  của nhà nước về quy trình tư vấn kỹ thuật; có quy trình thẩm tra quá trình tiến hành tham vấn mà cụ thể ở đây là quy trình chuẩn bị hồ sơ, việc ký kết văn bản cần trên cơ sở phân định  trách nhiệm tham vấn. Hiện nay, những vấn đề này  chưa được xây dựng và tổ chức thực hiện nghiêm túc dẫn đến chất lượng của các quyết định hành chính chưa được bảo đảm, nhất là trong những tình huống nhạy cảm,  nội dung quan trọng,  khi có vấn đề phát sinh trách nhiệm pháp lý thì  khó quy trách nhiệm cá nhân. Cụ thể, vị trí  pháp chế hành chính trong quy trình ban hành và giải quyết văn bản hiện nay còn nhiều bất cập. 

 Luật sư hành chính là công chức ăn lương của cơ quan, chịu trách nhiệm kiểm soát, đánh giá hoạt động của cơ quan và ban hành các văn bản  có thể tuân thủ pháp luật hoặc không. 

 Tuy nhiên, quy định của pháp luật chưa đảm bảo  trách nhiệm, vai trò của bộ phận này trong quá trình tiến hành ban hành và thực hiện quyết định hành chính. Xét về mức độ hiệu lực pháp lý, cấp trên quyết định của thủ trưởng cơ quan là pháp luật nhà nước; Luật nhà nước ở trên là các công ước và điều ước quốc tế mà nhà nước tham gia. Luật sư hành chính  chịu trách nhiệm xác minh tính hợp pháp  của tài liệu. Ở nhiều nước, vị trí này  độc lập trong cơ quan, văn phòng và luôn thực hiện trách nhiệm của mình bằng việc ký tắt vào các bản thảo văn bản hành chính. 

 

  Theo các quy định có liên quan của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, chẳng hạn tại Nghị định số 110/2004/NĐ-CP ngày 08 tháng 4 năm 2004 của Chính phủ về công tác văn phòng và Nghị định 09/2010/NĐ-CP ngày 08 tháng 02 năm 2010 của Chính phủ bổ sung Nghị định số 110/2004/NĐ-CP không có quy định về việc ký tắt các chữ cái đầu của quy phạm pháp luật hành chính trong các dự thảo văn bản hành chính để xác định trách nhiệm liên quan. 

 Việc không xác định chữ ký tắt của luật sư hay luật sư hành chính trong bộ máy hiện nay đã dẫn đến nhiều hệ lụy là các văn bản hành chính được ban hành vi phạm pháp luật, điều ước quốc tế và công ước quốc tế.  

 Nhiều văn bản hợp đồng của doanh nghiệp nhà nước,  tổ chức có vốn nhà nước  liên quan đến yếu tố quốc tế, khi xảy ra tranh chấp  thường bị  thua  kiện trước Tòa án Công lý quốc tế, nguyên nhân là do chủ thể này  không chú trọng đến việc chuẩn bị chứng cứ, chưa xem xét kỹ yếu tố cơ sở pháp lý quốc tế.  Theo Nghị định số 40/2010/NĐ-CP ngày 12 tháng 4 năm 2010 của Chính phủ về Kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật, trong quá trình thẩm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật, chuyên gia tư vấn soạn thảo văn bản trái pháp luật sẽ bị xử lý kỷ luật. Điều 34 của Nghị định nêu rõ: Việc xem xét, xử lý phải căn cứ vào nội dung, tính chất  trái pháp luật của văn bản, hậu quả của nội dung trái pháp luật  đối với xã hội và  tính chất, mức độ lỗi của cơ quan, người  ban hành hoặc tham mưu ban hành văn bản đó. Đặc biệt: 

 

 

 Cơ quan ban hành văn bản có nội dung trái pháp luật phải tổ chức  kiểm điểm, xác định trách nhiệm  tập thể và báo cáo  cấp trên có thẩm quyền xem xét, quyết định theo quy định của pháp luật; đồng thời xem xét trách nhiệm  người đứng đầu cơ quan trong việc ban hành văn bản có nội dung trái pháp luật. 

  Cán bộ, công chức quản lý trong quá trình tham mưu soạn thảo, thẩm định, thẩm tra, phê duyệt văn bản có nội dung trái pháp luật thì tùy theo tính chất, mức độ sai sót và nội dung trái pháp luật của văn bản phải chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật về xử lý kỷ luật đối với công chức, viên chức quản lý. 

 Trong trường hợp cán bộ, công chức có  vi phạm trong quá trình soạn thảo, ban hành văn bản dẫn đến hậu quả nghiêm trọng thì có thể bị đề nghị xem xét và truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật. Bộ máy tư vấn nên điều tra và dự đoán các vấn đề chính thông qua một thời gian dài theo dõi, thu thập thông tin, phát hiện vấn đề và phân tích nguyên nhân gốc rễ. 

  1. Xác định khối lượng công việc, tiêu chuẩn và đánh giá kết quả hoạt động tư vấn 

 Để xác định khối lượng công việc cần có tiêu chuẩn công việc của tư vấn. Hiện nay, các cơ quan hành chính áp dụng Nghị định số 36/2012/NĐ-CP ngày 10 tháng 6 năm 2013 của Chính phủ về vị trí việc làm và cơ cấu ngạch công chức. Khi áp dụng mô hình máy trạm trong bộ máy hành chính, việc ứng dụng công nghệ tự động hóa hỗ trợ  hoạt động tư vấn trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 cần được nghiên cứu chi tiết hơn.  Trên cơ sở thống kê khối lượng công việc của từng cơ quan, nơi làm việc, các cơ quan  tính toán số lượng nhân sự hợp lý và thực hiện công tác quy hoạch  cán bộ. Khối lượng công tác tham mưu  chủ yếu tính theo số  quyết định hành chính phải ban hành; thời gian trung bình nghiên cứu và ban hành quyết định hành chính trong lĩnh vực này; lượng tài liệu, thông tin  xử lý, quản lý trong lĩnh vực này; chữ số đầu tiên của danh sách tiêu chuẩn hồ sơ  cần quản lý; số lần tiếp dân, thời gian tiếp theo. 

 Dữ liệu được  điều tra, phân tích thống kê và phân loại theo các tiêu chí: cấp lãnh đạo mà tư vấn phục vụ, theo quy mô đối tượng quản lý (địa bàn, dân số, số lượng đối tượng...). 

 Việc đánh giá kết quả công tác tư vấn rất khó khăn do thói quen đánh giá phụ thuộc vào cảm tính của người lãnh đạo và  nhiều yếu tố khách quan, bên ngoài tác động đến kết quả tư vấn khó phân biệt rõ ràng. Vì vậy, mục đích chính của việc đánh giá kết quả công việc của chuyên gia tư vấn là để xác định mức thù lao của chuyên gia tư vấn; lập kế hoạch bảo đảm một số điều kiện  cần thiết cho việc hiệp thương. Chất lượng tham vấn cũng có thể được đánh giá thông qua hiệu quả quản lý tổng thể ở một mức độ nào đó. Đánh giá chất lượng quản lý từng phần có thể được sử dụng để xác định trách nhiệm pháp lý của nhà tư vấn đối với việc quản lý yếu kém, nếu có. Việc đánh giá kết quả sản phẩm tham mưu có thể tính bằng số lượng dự thảo quyết định hành chính được cấp quản lý thông qua; hiệu ứng đồng thuận của dư luận xã hội, hiệu quả của quy chế công tác hành chính.

Nội dung bài viết:

    Hãy để lại thông tin để được tư vấn

    comment-blank-solid Bình luận

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo