Cán bộ đường lối là gì

1. Chính sách là gì? khái niệm chính trị 

 Chính sách là ý định, quyết định về phương hướng hành động (thường là về công việc chung) theo từ điển tiếng Việt, theo nghĩa rộng.  

 Theo nghĩa hẹp, chính sách là chủ trương, quyết định của một tổ chức, cơ quan có thẩm quyền về phương hướng, chương trình, kế hoạch hành động của cả nước hoặc của từng ngành, từng địa phương hoặc trong từng lĩnh vực hoạt động như chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, an ninh, quốc phòng, đối ngoại,... nhằm thúc đẩy việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. 

 Tính năng chính sách 

 Người “cán bộ đường lối” của Điện lực Ea Súp

 - Về mục đích, chính sách được xây dựng nhằm chỉ đạo các tổ chức, cá nhân trong xã hội, cơ quan nhà nước thực hiện chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và nhà nước.  Về hình thức, chính sách phải được thể hiện bằng văn bản dưới các hình thức: nghị quyết, quyết định, chỉ thị, kết luận. Văn bản này không chứa  các quy định pháp luật nên không có giá trị ràng buộc. 

 - Về nội dung, chính sách đề ra phương hướng, chương trình, kế hoạch hành động của cả nước hoặc của từng ngành, từng địa phương hoặc trong từng lĩnh vực hoạt động như chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, an ninh, quốc phòng, đối ngoại... Những nội dung này phải phù hợp với đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. 

 - Chính sách tiếng Anh là kim chỉ nam 

 2. Con đường là gì? Đường lối, chính sách của Đảng?  

Theo  Hiến pháp, Đảng là lực lượng cầm quyền của nhà nước và xã hội. Giữa pháp luật và đường lối của Đảng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, thể hiện ở những điểm sau: 

 Thứ nhất, đường lối của Đảng là tư tưởng chỉ đạo cho việc xây dựng  văn bản quy phạm pháp luật. 

 Chẳng hạn, quan điểm của Đảng về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó các thành phần kinh tế cạnh tranh tự do, bình đẳng, đã xác định cơ sở chính trị cho việc xây dựng Hiến pháp năm 1992 cũng như các đạo luật kinh tế quan trọng  như Luật Đầu tư nước ngoài, Luật Doanh nghiệp... khi đất nước chuyển  từ nền kinh tế kế hoạch hóa sang nền kinh tế thị trường. Các vấn đề chính trị khi đã trở thành đường lối của Đảng thì có giá trị  to lớn trong đời sống xã hội và tác động mạnh mẽ đến hệ thống pháp luật nước ta. Vì vậy, pháp luật không chỉ là vấn đề chuyên môn mà phải thấm nhuần  quan điểm, đường lối chính trị của Đảng với phương châm: Chính trị là “linh hồn của pháp luật” như V.I.Lê-nin đã nói.  

 Thứ hai, đường lối của Đảng không thay thế vai trò của pháp luật, nhất là trong sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam của dân, do dân, vì dân hiện nay. 

  Đường lối của đảng là vị trí chính trị của  tổ chức đảng trong xã hội. Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng cầm quyền duy nhất, lãnh đạo nhà nước và xã hội, đường lối của Đảng được thể chế hóa thành các quy phạm pháp luật, đường lối của Đảng được “pháp chế hóa” và “chuyển hóa” thành các quy phạm pháp luật, các quan hệ pháp luật như chủ thể, đối tượng, nội dung quyền, nghĩa vụ pháp lý và trách nhiệm... nhằm điều chỉnh các  quyền và lợi ích xã hội nhằm mục đích bảo vệ con người. Đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước có tính độc lập tương đối trong việc phân định rõ vị trí, chức năng của Đảng và nhà nước trên cả  phương diện lý luận và thực tiễn. Thể chế hóa không phải là  sao chép một cách máy móc  nội dung  đường lối của Đảng vào pháp luật. Bên cạnh đó, đường lối của Đảng có ý nghĩa và nội dung riêng, pháp luật có những yêu cầu riêng. Pháp luật không thể phản ánh một cách thụ động  nội dung  đường lối của Đảng. Hoạt động lập pháp, thi hành và bảo vệ pháp luật là  hoạt động  sáng tạo của nhà nước. Đảng không thể làm thay Nhà nước trong các hoạt động đó. đề nghị từ 

 

 

 NGỌC TRAI MIỀN TÂY 

 Biểu tượng kinh doanh du lịch giải trí chính tại Hậu Giang 

 Mua đất cất nhà. Duy nhất tại Cát Tường Western Pearl. Giới hạn 

 ĐĂNG KÝ ĐỂ NHẬN NHIỀU ƯU ĐÃI! 

 Thứ ba, sự nghiệp xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật nhất thiết phải gắn liền với quá trình thể chế hóa các chỉ đạo của Đảng vào  hoạt động thực tế của bộ máy nhà nước.  

 Nói cách khác, hệ thống pháp luật  nước ta là kết quả của quá trình thể chế hóa đường lối của Đảng trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Từ đó, có thể hiểu khái niệm  thể chế hóa như sau: Thể chế hóa là hoạt động lập pháp  của nhà nước trên cơ sở quán triệt định hướng tư tưởng và nội dung cơ bản của đường lối  Đảng về điều chỉnh các quan hệ xã hội chủ yếu trong một giai đoạn phát triển nhất định của đất nước. Ở nước ta, Đảng  lãnh đạo toàn bộ, tuyệt đối. Điều này quy định  thể chế hóa là nguyên tắc cơ bản của  chính sách nước ta.  

 Thứ tư, một số nét chung về thể chế hóa đường lối của Đảng 

 

 - Đường lối của Đảng vạch sẵn: Là đặc điểm thể hiện tính tiên phong, trách nhiệm cao cả của Đảng đối với nước, với dân. Lãnh đạo theo đường lối là phương thức lãnh đạo chủ yếu của Đảng, đồng thời xác định đặc điểm  thể chế hóa ở Việt Nam, sự chỉ đạo tổng thể của Đảng  đối với nhà nước và hệ thống pháp luật phải thể hiện đầy đủ đường lối của Đảng. 

 

 - Thể chế hóa là một phần của hoạt động củng cố hệ thống pháp luật. Kết quả của  thể chế hóa không phải là sự  cụ thể hóa, chi tiết hóa đường lối của Đảng mà là kết quả của hoạt động lập pháp. 

 - Thể chế hóa là hoạt động của Nhà nước, hoạt động này cũng  đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Công tác kiểm tra, chấn chỉnh của Đảng đối với hoạt động lập pháp nói chung và công tác xây dựng thể chế  nói riêng không nên dựa vào tiền kiểm mà chủ yếu là hậu kiểm (trừ những vấn đề liên quan đến bản chất chế độ chính trị của đất nước). 

 - Thể chế hóa là hoạt động thể hiện quá trình nhận thức chính trị, nhận thức pháp luật của Đảng ta và Nhà nước ta.  

 Thứ năm, kết quả và hạn chế 

 

 Kết quả 

 

 - Pháp luật  phản ánh trung thực, kịp thời  quan điểm, định hướng chủ yếu của Đảng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; 

 

 - Thể chế hóa đã được quy định trong các nguyên tắc pháp lý, Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước ta cũng đã quy định quá trình thể chế hóa đường lối của Đảng trong pháp luật. Quy trình này gồm các bước như nêu sáng kiến lập pháp, quyết định chương trình xây dựng pháp luật hàng năm và dài hạn; tổ chức thực hiện chương trình xây dựng luật, pháp lệnh gồm soạn thảo, thẩm tra, báo cáo xin ý kiến, thảo luận thông qua dự án, công bố, tổ chức thực hiện; 

 

 – Cơ chế chỉ đạo, điều hành, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước, giữa Nhà nước với các cơ quan của Đảng được củng cố và đã đi vào nền nếp, có hiệu quả; 

 

 

 – Các quy định về việc cho ý kiến của các cơ quan của Đảng đối với các dự án luật, pháp lệnh đang được hoàn thiện; 

 

 – Kết quả thể chế hoá là đã hình thành hệ thống pháp luật tương đối đồng bộ, đảm bảo tính công khai, minh bạch, tạo cơ sở pháp lí vững chắc cho quản lí nhà nước và sự vận hành tự do, an toàn của các quan hệ kinh tế – xã hội trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định h-ớng XHCN và hội nhập quốc tế.  

 Hạn chế 

 

 – Năng lực thể chế hoá đường lối của Đảng thành pháp luật chưa tương xứng với nhiệm vụ, yêu cầu và tính chất của hoạt động này; 

 

 – Việc thể chế hoá nhiều khi còn chậm, không đồng bộ; chương trình lập pháp còn chưa có tính khả thi cao; 

 

 – Nội dung một số đạo luật còn mang nặng tính chủ trương, chính sách chung, thiếu tính xác định cụ thể về mặt cơ chế pháp lí. Nhiều đạo luật chỉ mang tính định khung, nếu muốn triển khai áp dụng vào thực tiễn phải đợi văn bản dưới luật quy định chi tiết hướng dẫn thi hành; 

 

 – Công tác pháp điển hoá còn chịu ảnh hưởng của sự vận dụng một cách cứng nhắc các phạm trù, khái niệm trong khoa học pháp lí. Chẳng hạn, quan điểm phân chia các ngành luật trong khoa học pháp lí lại mang đến cho các nhà lập pháp những ảnh hưởng không nhỏ khi ban hành các văn bản quy phạm pháp luật mà thiếu chú ý đến tính liên quan, tính đồng bộ của các văn bản đó trong cùng một hệ thống pháp luật. Thiếu nhất quán trong chủ trương và quan điểm về nội dung, phương thức và mức độ điều chỉnh đối với các quan hệ xã hội; 

 – Có tình trạng cục bộ trong quá trình xây dựng dự án luật, pháp lệnh; nội dung và quan điểm lập pháp có khi xuất phát từ lợi ích của một hoặc một số đối tượng nào đó, đồng thời chỉ nhằm mục tiêu đem lại sự tiện lợi cho cơ quan và cán bộ có thẩm quyền mà chưa xuất phát từ lợi ích chung của xã hội, lợi ích của người dân; 

 

 – Chưa huy động có hiệu quả sự tham gia của các chuyên gia giỏi, có kinh nghiệm trong việc xây dựng dự án luật, pháp lệnh; cơ chế pháp lí cho sự tham gia xây dựng, phản biện các dự án luật, pháp lệnh, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật khác của các tổ chức xã hội, các hiệp hội nghề nghiệp chưa được hoàn thiện; 

 

 – Quy trình thể chế hoá đường lối của Đảng thành pháp luật của Nhà nước chưa được luật hoá đầy đủ, cụ thể.  Ở nước ta, đường lối của Đảng là cơ sở định hướng chính trị cho tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước cũng như hệ thống tư pháp. Thể chế hóa thể hiện mối quan hệ giữa chính trị và pháp luật. Vì vậy, yêu cầu điều chỉnh pháp luật vào các lĩnh vực của đời sống xã hội đòi hỏi nó phải nhất quán với việc thể chế hóa đường lối của Đảng.

Nội dung bài viết:

    Hãy để lại thông tin để được tư vấn

    comment-blank-solid Bình luận

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo