1. Bối cảnh:
vua Lê Thánh Tông (1460-1497) tiến hành cuộc cải cách trong bối cảnh đất nước sau một thời gian dài chiến tranh, khủng hoảng, bộ máy hành chính nhà nước yếu kém về nhiều mặt. Ông đã kiên quyết thực hiện CCHC, coi đó là điều kiện tiên quyết để đất nước phát triển và thực hiện các cải cách khác.
2. Nội dung:
Cuộc cải cách được tiến hành toàn diện trên nhiều mặt, đem lại sự thay đổi lớn. Đặc biệt, một số nội dung nổi bật như xây dựng, củng cố chế độ Trung ương tập quyền mạnh, tập trung quyền lực vào tay nhà vua, phát huy vai trò tối cao của vua trong cai trị đất nước, điều hành triều chính về quyền lực và sự gương mẫu. Xây dựng kỷ cương, phép nước, bảo đảm quản lý bằng pháp luật, đề cao pháp luật. Vua Lê Thánh Tông luôn đề cao vai trò của pháp luật, chú trọng xây dựng và thực hiện pháp luật; cho biên soạn Bộ luật Hồng Đức nổi tiếng. Ngoài ra còn có nhiều sắc chỉ về các quy định tuyển dụng, kiểm tra, giám sát, khen thưởng, kỷ luật đội ngũ quan lại... Căn cứ vào các văn bản luật, ông kiểm tra, giám sát, khen thưởng và xử phạt quan lại chính xác, hiệu quả.
Thống nhất tổ chức bộ máy hành chính từ Trung ương đến địa phương tinh gọn, trên cơ sở phân định rõ chức năng, nhiệm vụ để đảm bảo hoạt động thông suốt, hiệu quả. Thực hiện nguyên tắc “trên dưới liên kết hiệp đồng, trong ngoài kiềm chế lẫn nhau” trong hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước. Lịch sử đã ghi nhận: “Dưới triều vua Lê Thánh Tông, chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ hỗ trợ, giám sát lẫn nhau giữa các bộ, khoa, tự, giữa Trung ương và địa phương, giữa cấp trên và cấp dưới, trình tự, quy chế làm việc được phân định cụ thể, rành mạch”(1). Dưới triều vua Lê Thánh Tông, nguyên tắc này được thực hiện ở triều đình trung ương, lục bộ, các cơ quan chuyên trách và ở tất cả các cấp hành chính địa phương.
Xây dựng đội ngũ quan lại hiền tài, trung thành: vua Lê Thánh Tông chú trọng tuyển chọn, tiến cử quan lại một cách công khai, minh bạch, tạo điều kiện nhiều người hiền tài được tiến cử để triều đình xem xét, tuyển chọn. Ông đã lựa chọn được những quan lại hiền tài, tránh được căn bệnh “chạy chức, chạy quyền”, “mua quan, bán tước”. Rèn luyện đạo đức cho đội ngũ quan lại: nhà vua yêu cầu đội ngũ quan lại phải “lấy chữ lễ, nghĩa, liêm, sĩ mà dạy dân, khiến cho dân hướng về chữ nhân, chữ nhường, bỏ hết lòng gian phi”, để cho dân được an cư, lạc nghiệp, giàu có và đông đúc.
Vua Lê Thánh Tông thực hiện chế độ “hồi tỵ”, với mục đích đề phòng quan lại gây bè, kéo cánh, đem tình cảm riêng câu kết với nhau để thực hiện hành vi tham nhũng, vi phạm pháp luật. Trong Bộ luật Hồng Đức, triều đình quy định những điều khoản phải “hồi tỵ”: cha con, thầy trò, anh em, vợ chồng, thông gia... không được làm quan cùng một chỗ, không được tổ chức thi cùng một nơi. Để chế độ “hồi tỵ” được thực hiện nghiêm chỉnh, nhiều quy định cụ thể đã được đặt ra để răn đe, xử phạt những quan lại vi phạm các quy định về chế độ “hồi tỵ”. Những quy định trong chế độ “hồi tỵ” được áp dụng rất cụ thể, đối tượng, phạm vi áp dụng rộng, chế tài áp dụng nghiêm khắc đã góp phần làm cho bộ máy nhà nước được củng cố, tránh được tình trạng cục bộ, bè phái, câu kết trong những vấn đề nhạy cảm, như tuyển dụng, khen thưởng, đề bạt, tham nhũng...
Xây dựng bộ máy kiểm tra, giám sát khách quan, công bằng: cơ chế kiểm tra, giám sát quan lại dưới triều vua Lê Thánh Tông có thể chia làm hai nhóm: cơ chế tự kiểm tra, giám sát quan lại của mỗi hệ thống và cơ chế kiểm tra, giám sát quan lại từ bên ngoài hệ thống. Việc kiểm tra, giám sát đảm bảo tính độc lập cao, khách quan, uy quyền thực sự cho các quan ngự sử, giúp họ đánh giá, xét xử quan lại khách quan, đúng với công, tội. Cải cách hành chính dưới triều vua Lê Thánh Tông tương đối toàn diện, mang lại sự hưng thịnh cho đất nước lúc bấy giờ, tình hình chính trị - xã hội ổn định, kinh tế đất nước phát triển, dân trí được nâng cao, năng lực quốc phòng được tăng cường, chế độ quân chủ Trung ương tập quyền được củng cố….
Nội dung bài viết:
Bình luận