Luật Biển Việt Nam khẳng định hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền bất khả xâm phạm của Việt Nam trong việc giải quyết các tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ đối với hai quần đảo này bằng biện pháp hòa bình trên nguyên tắc của luật pháp và thực tiễn quốc tế.

1. Khái quát về biển đảo Việt Nam
Trong luật biển, Việt Nam đề cập đến chủ quyền của hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, mặc dù Công ước không đề cập đến việc giải quyết các tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ. Tuy nhiên, điều quan trọng và hoàn toàn phù hợp với công ước này là, trong luật biển, Việt Nam đề cập đến các đảo và quần đảo và tác dụng của các đảo và quần đảo trong việc xác định phạm vi các vùng biển của mình, trong nội dung này đã khẳng định rằng với các đảo nhỏ, không thích hợp cho con người sinh sống và không có đời sống kinh tế riêng, không có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa riêng biệt. Điều này có nghĩa là chúng tôi phản đối các quốc gia đưa ra các quy định trái với Công ước và đi ngược lại các quy tắc quốc tế chung để hợp pháp hóa các yêu sách ranh giới biển đầy tham vọng của họ ở Biển Đông. Nguyên tắc chiếm hữu thực sự là nguyên tắc cơ bản được áp dụng để giải quyết các xung đột về chủ quyền lãnh thổ. Việt Nam là quốc gia đầu tiên trong lịch sử sở hữu hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa khi quần đảo này còn bị bỏ hoang. Thực thi chủ quyền rõ ràng, liên tục và hòa bình là nguyên tắc được quốc tế công nhận, áp dụng rộng rãi trong giải quyết tranh chấp lãnh thổ. Chúng tôi sẵn sàng đàm phán. Các nhà nước Việt Nam trước đây đã nêu ra và bây giờ chúng tôi cũng sẵn sàng làm như vậy. Về luật biển, Việt Nam khẳng định sẵn sàng cùng các bên liên quan đàm phán, giải quyết ổn thỏa mọi tranh chấp trên cơ sở Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 và luật pháp quốc tế./. Đó là thiện chí của Việt Nam. Trên thực tế, Việt Nam đã thành công trong việc thực hiện thiện chí này, bởi các bên tôn trọng sự thật khách quan, có thiện chí và cầu thị khi tiến hành đàm phán.
2. Giải pháp giải quyết các tranh chấp ở Biển Đông theo luật pháp quốc tế
Xét về mặt khoa học luật pháp quốc tế, các quốc gia không được sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực mà nên giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình. Điều 33 của Hiến chương Liên hợp quốc quy định rằng giải quyết hòa bình các tranh chấp quốc tế là nghĩa vụ pháp lý của tất cả các quốc gia và các chủ thể khác của luật pháp quốc tế. Căn cứ vào tính chất, thẩm quyền và thủ tục giải quyết tranh chấp, có thể chia các biện pháp hòa bình để giải quyết tranh chấp quốc tế thành hai nhóm cơ bản:
Thứ nhất, các biện pháp giải quyết tranh chấp mang tính ngoại giao, bao gồm đàm phán, điều tra, trung gian, hòa giải và các biện pháp giải quyết tranh chấp trước các tổ chức quốc tế thông qua các hiệp định khu vực, có tính chất cơ bản. Giải quyết tranh chấp là việc giải quyết tranh chấp thông qua đối thoại hoặc thương lượng thông qua các diễn đàn, hội nghị quốc tế do các bên tranh chấp hoặc bên thứ ba tổ chức. Có thể kể đến các tổ chức liên chính phủ quốc tế như ASEAN, Liên minh châu Âu, Liên minh châu Phi, v.v. Thứ hai, biện pháp giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Các biện pháp này có đặc điểm là giải quyết tranh chấp theo trình tự, thủ tục pháp luật, thông qua hoạt động trọng tài mà kết quả giải quyết tranh chấp là phán quyết của Tòa án Công lý quốc tế hoặc trọng tài quốc tế có giá trị chung thẩm, buộc các bên liên quan phải tuân thủ và thực hiện. . Ngoài hai nhóm biện pháp trên, một biện pháp mới không được đề cập trong Điều lệ nhưng được áp dụng rộng rãi trên thực tế là giải quyết tranh chấp. Điều đó có nghĩa là, những nhân vật có uy tín lớn trong quan hệ quốc tế, chẳng hạn như Nguyên thủ quốc gia, Tổng thư ký hoặc cựu Tổng thư ký Liên hợp quốc, được các bên xung đột đề nghị giới thiệu bản thân để thuyết phục các bên gặp gỡ và tiếp tục các cuộc họp của họ. Giải quyết tranh chấp. Ngoài Hiến chương Liên hợp quốc, Công ước 1982 đã quy định 9 điều khoản và 4 phụ lục quy định về cơ chế giải quyết tranh chấp. Theo Công ước 1982, Điều 287 quy định bốn cơ quan giải quyết tranh chấp: (1) Tòa án Quốc tế về Luật Biển được thành lập theo Phụ lục VI; (2) Tòa án Công lý Quốc tế; (3) Tòa án Trọng tài Đặc biệt được thành lập theo Phụ lục VIII, để giải quyết một hoặc nhiều tranh chấp được quy định trong đó; (4) Tòa trọng tài quốc tế được thành lập theo Phụ lục VII. Cần lưu ý rằng, nếu các bên tranh chấp không lựa chọn trước hoặc không đạt được thỏa thuận về cơ quan giải quyết tranh chấp nào trong bốn cơ quan trên, thì Tòa án Trọng tài Quốc tế phải đưa ra giải quyết tranh chấp. Nói cách khác, nếu các bên không có tuyên bố trước hoặc không có thỏa thuận khác thì phương thức giải quyết của Tòa án Trọng tài Quốc tế đương nhiên được áp dụng.
3. Các biện pháp giải quyết tranh chấp mà Việt Nam áp dụng
Đối mặt với tranh chấp Biển Đông với Trung Quốc tồn tại nhiều thập kỷ qua, Việt Nam kiên trì theo đuổi các biện pháp giải quyết tranh chấp ngoại giao, cụ thể là đàm phán song phương và đa phương.
Đối với tranh chấp liên quan đến giàn khoan HD 981, cho đến nay, Việt Nam đã có hai công văn gửi Liên hợp quốc vào ngày 28/5 và ngày 6/6, kèm theo Công hàm của Bộ Ngoại giao Việt Nam gửi Bộ Ngoại giao Việt Nam. Ngoại giao Trung Quốc phản đối việc Trung Quốc tiếp tục duy trì giàn khoan HD 981 và các tàu hộ tống trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam. Ngày 3/1, Việt Nam tiếp tục gửi thư lên Liên hợp quốc đề nghị phân phát tài liệu phản đối Trung Quốc như tài liệu chính thức của Đại hội đồng Liên hợp quốc. Hơn nữa, Việt Nam đang nỗ lực phát huy tối đa vai trò của ASEAN, có kế hoạch đưa các tranh chấp ra tòa án quốc tế và đẩy mạnh hợp tác với các cường quốc khác nhằm củng cố vị thế, tạo lợi thế trong thế cân bằng với Trung Quốc ở Biển Đông.
4. Phương án giải quyết của Tòa án
Trước sự leo thang căng thẳng của tranh chấp ở Biển Đông, một số chuyên gia trong nước và quốc tế cho rằng, khi các giải pháp chính trị, ngoại giao mà Việt Nam đã, đang và sẽ tiếp tục áp dụng không hiệu quả thì giải pháp hòa giải bằng trọng tài là cần thiết. , vì đó cũng là một trong những biện pháp hòa bình để giải quyết các tranh chấp quốc tế được quy định tại Điều 33 Hiến chương Liên hợp quốc.
Với việc giải thích và áp dụng Công ước 1982, đối với các tranh chấp ở Biển Đông sẽ sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp do Công ước quy định. Theo đó, có 4 cơ quan được liệt kê là (1) Tòa án Quốc tế về Luật Biển được thành lập theo Phụ lục VI; (2) Tòa án Công lý Quốc tế; (3) Tòa án Trọng tài Đặc biệt được thành lập theo Phụ lục VIII để giải quyết một hoặc nhiều tranh chấp được quy định trong đó; (4) Tòa án Trọng tài Quốc tế được thành lập theo Phụ lục VII.
4.1. Tòa án Quốc tế về Luật Biển và Tòa án Công lý
Hai tòa án này không có thẩm quyền tự nhiên để xét xử và giải quyết tranh chấp giữa các quốc gia. Để xác lập thẩm quyền của hai cơ quan này, Việt Nam và Trung Quốc phải ký kết điều ước quốc tế hoặc thỏa thuận quốc tế đồng ý để hai cơ quan tài phán này xem xét, giải quyết tranh chấp giữa hai bên. Do đó, rào cản lớn nhất của Việt Nam là liệu Trung Quốc có chấp nhận thẩm quyền hay không. Về tình hình tranh chấp ở Biển Đông hiện nay, Việt Nam và Trung Quốc chưa ký kết bất kỳ điều ước quốc tế song phương nào hoặc tham gia bất kỳ điều ước quốc tế đa phương nào quy định thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Tòa án Công lý Quốc tế hoặc Tòa án Quốc tế về Luật Biển. Mặt khác, Việt Nam và Trung Quốc chưa có tuyên bố đơn phương nào về việc chấp nhận thẩm quyền của hai tòa án này. Vì vậy, có thể thấy tính khả thi của việc kiện Trung Quốc ra Tòa án Công lý Quốc tế hay Tòa án Luật Biển Quốc tế là không cao.
4.2. Tòa án Trọng tài Đặc biệt
Tòa án Trọng tài Đặc biệt, có quyền tiến hành điều tra và thiết lập các sự kiện từ nguồn gốc của tranh chấp. Khuyến nghị của nó không phải là kết luận, nhưng chỉ đơn thuần là cơ sở của tranh chấp. Các bên xem xét các vấn đề tại nguồn gốc của tranh chấp. Vì vậy, tranh chấp giữa “đường lưỡi bò” và HD 981 không thể giải quyết bằng Tòa án Trọng tài Đặc biệt.
4.3. Tòa án Trọng tài Quốc tế
Tòa án Trọng tài Quốc tế Việt Nam có lợi thế là cơ quan này được tự động áp dụng. Tuy nhiên, Công ước cũng đưa ra ngoại lệ đối với cơ chế ngầm định này, tức là một bên tranh chấp có thể bảo lưu bằng cách tuyên bố không chấp nhận quyền tài phán bắt buộc theo Công ước trong các trường hợp sau: (1) Tranh chấp về ranh giới biển, vịnh lịch sử (hàng hải ranh giới, vịnh lịch sử); (2) Hoạt động quân sự; nghiên cứu biển và thực thi pháp luật nghề cá; (3) Tranh chấp đã được đệ trình lên Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc để giải quyết. Thẩm quyền của trọng tài quốc tế xuất phát từ thỏa thuận của các bên tranh chấp. Thỏa thuận này có thể nằm trong một điều ước quốc tế được ký kết trước giữa các quốc gia với điều kiện các bất đồng hoặc tranh chấp phát sinh giữa các quốc gia sẽ được giải quyết bằng trọng tài. Thỏa thuận trọng tài cũng có thể là một văn bản được ký kết riêng giữa các bên liên quan đến việc phân xử một tranh chấp cụ thể đã phát sinh. Việc ký kết thỏa thuận trọng tài phải tôn trọng sự bình đẳng và tự nguyện của các bên. Hiệu lực pháp lý của thỏa thuận trọng tài được xem xét tương tự như khi xem xét hiệu lực của điều ước quốc tế. Trong trường hợp có tranh chấp về giá trị pháp lý của thỏa thuận trọng tài hoặc về thẩm quyền giải quyết của trọng tài thì trọng tài viên là người có quyền quyết định. Thông thường, trọng tài chỉ giải quyết các tranh chấp pháp lý, nghĩa là các tranh chấp về sự tồn tại, giải thích hoặc áp dụng một quy tắc pháp luật. Tuy nhiên, không loại trừ khả năng các bên có thể yêu cầu trọng tài giải quyết tranh chấp chính trị. Trong trường hợp như vậy, để giải quyết tranh chấp, trọng tài có thể dựa trên nguyên tắc công bằng (ex aequo et bono).
Căn cứ quy định tại Điều 4, Phụ lục VII của UNCLOS, trọng tài sẽ thực hiện các chức năng phù hợp với Phụ lục VII và các quy định khác của UNCLOS. Như vậy, từ quy định của UNCLOS và Phụ lục VII, trọng tài có chức năng giải quyết các tranh chấp về giải thích và áp dụng UNCLOS khi:
“Một quốc gia thành viên tham gia vào một vụ tranh chấp mà không được một tuyên bố còn hiệu lực bảo vệ thì được xem là đã chấp nhận thủ tục trọng tài”
“Nếu các bên không chấp nhận cùng một thủ tục để giải quyết tranh chấp thì vụ tranh chấp đó sẽ được giải quyết theo thủ tục trọng tài”
Thủ tục giải quyết tranh chấp tại trọng tài được bắt đầu bằng Thông báo bằng văn bản của nguyên đơn gửi tới bị đơn. Thông báo phải kèm theo bản trình bày các yêu sách và lý do làm căn cứ cho các yêu sách đó. Trừ khi các bên có thỏa thuận khác, trọng tài sẽ tự quy định thủ tục giải quyết bằng cách tạo điều kiện cho mỗi bên có khả năng bảo vệ quyền và trình bày các căn cứ của mình tại Tòa
Nhằm giúp trọng tài giải quyết hiệu quả các vụ tranh chấp, theo quy định của UNCLOS, các bên liên quan có nghĩa vụ cung cấp cho trọng tài mọi tài liệu, các điều kiện thuận lợi, sự chỉ dẫn thích đáng và khả năng, nếu điều đó là cần thiết, dẫn đến và nghe các nhân chứng, hoặc chuyên gia tại phiên tòa. Nếu một trong số các bên tranh chấp không ra Tòa hoặc không trình bày các lý lẽ của mình, thì bên kia có thể yêu cầu Tòa tiếp tục trình tự tố tụng và phán quyết. Do vậy, việc một bên vắng mặt hoặc không trình bày các lý lẽ của mình cũng không cản trở tiến trình giải quyết tranh chấp tại Tòa trọng tài ( điều 9 phụ lục VII UNLCOS )
Phán quyết của Tòa trọng tài được thông qua theo đa số. Trong trường hợp hòa, giọng nói của chánh án là quyết định. Về nội dung, phán quyết trọng tài chỉ giới hạn trong nội dung tranh chấp và phải ghi rõ căn cứ trọng tài viên ra phán quyết. Về hình thức, phán quyết của Hội đồng trọng tài phải ghi rõ tên các thành viên của Tòa án đã tham gia giải quyết và thời điểm ra phán quyết. Bất kỳ thành viên nào của Tòa án cũng có thể đưa ra ý kiến hoặc sự không đồng ý của mình đối với bản án. Về nguyên tắc, phán quyết của trọng tài là chung thẩm và không có kháng cáo, trừ khi các bên có thỏa thuận về thủ tục này. Nếu các bên tranh chấp đã đồng ý trước về việc kháng cáo, vụ việc có thể được xem xét lại. Tất cả các bên tranh chấp phải tuân theo quyết định của trọng tài. Mọi tranh chấp có thể phát sinh giữa các bên liên quan đến việc giải thích hoặc thi hành phán quyết trọng tài, mỗi bên có quyền đệ trình lên trọng tài viên được chỉ định để giải quyết. Ngoài ra, nếu tất cả các bên tranh chấp đồng ý, các tranh chấp liên quan đến việc giải thích và thi hành phán quyết trọng tài có thể được đệ trình lên bất kỳ tòa án nào theo Điều 287 của UNCLOS để giải quyết (Tòa án Công lý Quốc tế hoặc Tòa án Luật Biển Quốc tế). Với các tranh chấp ở Biển Đông mà Việt Nam là một bên tham gia, Việt Nam phải tiếp tục và kiên định chủ trương nhất quán là “… sẽ cùng các nước liên quan, thông qua thương lượng trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền của nhau, phù hợp với luật pháp và tập quán quốc tế, giải quyết các vấn đề về các vùng biển và thềm lục địa của mỗi bên” và “... giải quyết tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ cũng như các bất đồng khác liên quan đến biển Đông thông qua thương lượng. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần chủ động nghiên cứu, chuẩn bị hồ sơ pháp lý để có thể vận dụng các thủ tục giải quyết tranh chấp bằng tài phán, nhất là thủ tục giải quyết tranh chấp bằng trọng tài quốc tế về luật biển được thành lập theo Phụ lục VII của UNCLOS.
5. Thuận lợi của việc Việt Nam chọn giải pháp pháp kiện Trung Quốc ra trọng tài quốc tế về luật biển
- Toà trọng tài quốc tế về luật biển được thành lập theo Phụ lục VII của UNCLOS sẽ giải quyết vụ kiện kể cả khi Trung Quốc không đồng ý;
- Việt Nam có thể học tập kinh nghiệm từ vụ kiện của Philipines và các quốc gia đã giải quyết tại Tòa trọng tài quốc tế về luật biển như: Barbados, Trinidad và Tobago, Ireland, Anh, Guyna, Suriname, Ấn Độ, Banglades… trong việc chuẩn bị hồ sơ khởi kiện và chiến thuật tranh tụng tại Tòa;
- Việt Nam sẽ nhận được sự hỗ trợ về quy trình, thủ tục, chọn trọng tài viên và các thủ tục pháp lý khác trên cơ sở Hiệp định hợp tác giữa Chính phủ nước Cộng hòa XHCN Việt Nam và Trọng tài quốc tế thường trực PCA ngày 23/6/2014;
- Nếu phán quyết trọng tài có lợi cho Việt Nam sẽ có ý nghĩa chính trị - pháp lý rất lớn trong việc ngăn ngừa các hành động tiếp theo của Trung Quốc
Tạo niềm tin và nguồn động viên to lớn đối với nhân dân Việt Nam trong công cuộc bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền biển đảo hiện nay. Tóm lại, Việt Nam cần nghiên cứu kỹ các phương thức giải quyết tranh chấp thông qua trọng tài để tìm ra giải pháp hiệu quả nhất, bên cạnh đó, ưu tiên phối hợp với các biện pháp ngoại giao. Biển Đông ấm hay lặng là vấn đề quan tâm của tất cả các nước trong khu vực và trên thế giới. Hàng loạt diễn biến trong tranh chấp Biển Đông đã đưa vấn đề vượt ra ngoài phạm vi khu vực. Vì vậy, bên cạnh việc áp dụng các biện pháp pháp lý, Việt Nam phải kết hợp với chính sách đối ngoại kiên quyết nhưng không kém phần uyển chuyển, mềm dẻo, phân minh và bảo đảm sự ủng hộ của các chủ thể cũng như các bên liên quan như dư luận, cộng đồng quốc tế để không chỉ ngăn chặn căng thẳng từ leo thang đến “bờ vực chiến tranh” mà còn nhanh chóng đạt được kết quả chính đáng, phù hợp với cơ sở lịch sử và luật pháp quốc tế.
Nội dung bài viết:
Bình luận