
1. Khái niệm định chế tài chính trung gian
Các trung gian tài chính là các tổ chức tài chính có chức năng chuyển vốn từ những người có nó sang những người cần nó.
Như chúng ta đã biết, không giống như tài chính trực tiếp, nơi những người cần vốn và những người có nó nói chuyện trực tiếp với nhau trên thị trường tài chính, các trung gian tài chính thực hiện việc dẫn vốn thông qua một cây cầu, tức là những người cần vốn và muốn có được tín dụng phải thông qua bên thứ ba, tức là các tổ chức tài chính gián tiếp hoặc tổ chức tài chính trung gian.
Các trung gian tài chính chủ yếu là ngân hàng, hiệp hội tín dụng, hiệp hội tín dụng, công ty bảo hiểm, công ty tài chính, v.v.
2. Chức năng của các trung gian tài chính
Chức năng tạo vốn
Các trung gian tài chính huy động vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế, hình thành các nút tiền tệ tập trung. Bằng cách trả lãi, các trung gian tài chính mang lại lợi ích cho người tiết kiệm và cũng thu được lợi nhuận trong thời kỳ cung ứng vốn.
Chức năng cung cấp vốn
Trong nền kinh tế thị trường, đối tượng cần vốn là các công ty, tổ chức trong và ngoài nước. Các tổ chức tài chính trung gian sẽ đáp ứng đầy đủ và nhanh chóng nhu cầu vốn và sẽ nhận được một số lợi nhuận bằng cách cho vay với lãi suất cho vay cao hơn lãi suất mà các tổ chức này trả cho người tiết kiệm.
chức năng điều khiển
Các trung gian sẽ kiểm tra để giảm thiểu rủi ro bằng cách kiểm tra thường xuyên hoặc định kỳ trước khi cho vay, trong và sau khi cho doanh nghiệp vay.
3. Phân loại trung gian tài chính
Các trung gian tài chính bao gồm hai loại chính sau:
Tổ chức tín dụng ngân hàng
Tổ chức tín dụng phi ngân hàng.
3.1 Các tổ chức tín dụng ngân hàng
Khái niệm: Tổ chức tín dụng ngân hàng là công ty hoạt động tiền tệ và làm dịch vụ ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng và làm dịch vụ thanh toán qua tài khoản ngân hàng.
Ngân hàng là một loại hình tổ chức tín dụng được phép tham gia vào tất cả các hoạt động ngân hàng và hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Tùy theo tính chất và mục đích hoạt động, các loại hình ngân hàng bao gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng phát triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàng chính trị, ngân hàng hợp tác xã và các loại hình ngân hàng khác. Hoạt động của các tổ chức tín dụng.
Các hoạt động chính của một tổ chức tín dụng ngân hàng. Huy động vốn: bao gồm nhận tiền gửi, phát hành chứng khoán, vay vốn giữa các tổ chức tín dụng, vay vốn Ngân hàng Nhà nước. Cấp tín dụng cho các tổ chức và cá nhân dưới các hình thức cho vay, chiết khấu thương phiếu và các công cụ có giá khác, bảo lãnh và cho thuê. Dịch vụ thanh toán và ngân quỹ: mở tài khoản, dịch vụ thanh toán, dịch vụ ngân quỹ, đăng ký hệ thống thanh toán. Các hoạt động khác: góp vốn, mua cổ phần, tham gia thị trường tiền tệ, kinh doanh ngoại hối và vàng, ủy thác và đại lý, kinh doanh bất động sản, bảo hiểm và dịch vụ, tư vấn dịch vụ... Hoạt động ngân hàng thương mại.
Các hoạt động gây quỹ. Huy động vốn nhàn rỗi trong xã hội: Đây là một trong những hoạt động quan trọng nhất của NHTM. Nó tạo nên nguồn vốn chủ yếu trong hoạt động của bất kỳ ngân hàng thương mại nào. Các ngân hàng thương mại thường huy động vốn nhàn rỗi bằng cách nhận tiền gửi và phát hành trái phiếu ngân hàng. Huy động tiền gửi là hình thức huy động vốn phổ biến của ngân hàng thương mại. Xã hội ngày nay đang phát triển nhanh chóng, các nguồn vốn tiền gửi ngày càng phong phú và phức tạp. Nhưng về mặt kỹ thuật của Ngân hàng, tiền gửi có thể được chia thành tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi không kỳ hạn. Huy động vốn thông qua chứng từ có giá: Là việc các ngân hàng thương mại phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, trái phiếu ngân hàng để huy động vốn. Với hình thức huy động này ngân hàng chủ động huy động vốn tại công ty để bổ sung cho nguồn vốn thương mại của ngân hàng. Vốn vay các ngân hàng khác: Là nguồn vốn được hình thành từ quan hệ giữa các tổ chức tín dụng với nhau hoặc giữa các tổ chức tín dụng với NHTW. Vốn chủ sở hữu: Nguồn vốn này bao gồm giá trị thực của vốn cổ phần, các quỹ dự trữ và một số nghĩa vụ nợ khác do NHTW quy định. Về đặc điểm, nguồn vốn này chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng vốn kinh doanh của ngân hàng vì nó là cơ sở để thu hút các nguồn vốn khác, là vốn khởi đầu để tạo uy tín của ngân hàng với các khách hàng cao cấp. Đồng thời, vốn tự có là cơ sở để xác định hệ số an toàn trong hoạt động ngân hàng. Hoạt động sử dụng và khai thác các nguồn vốn.
Hoạt động sử dụng và khai thác vốn là hoạt động chủ yếu và quan trọng nhất của ngân hàng thương mại. Định hướng cơ bản của hoạt động này là tín dụng ngắn hạn và tín dụng trung dài hạn. Cho vay ngắn hạn là các khoản cho vay có thời hạn dưới 12 tháng. Đây là loại hình cho vay phổ biến của các ngân hàng thương mại, nhằm đáp ứng nhu cầu vốn thiếu hụt tạm thời cho doanh nghiệp và dân cư. Cho vay trung hạn và dài hạn của ngân hàng thương mại là các khoản cho vay gắn với các chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội có thời hạn từ 12 tháng trở lên. Loại cho vay này ngày càng được các ngân hàng thương mại quan tâm. Một mặt đáp ứng nhu cầu vay trung và dài hạn của xã hội để phát triển sản xuất - kinh doanh, đầu tư và xây dựng công nghiệp. Mặt khác, chúng cũng phù hợp với khả năng huy động vốn ngày càng tăng của các ngân hàng thương mại. Hoạt động đầu tư chứng khoán giúp các ngân hàng thương mại tận dụng và đòn bẩy các nguồn vốn một cách hiệu quả nhất. Nâng cao tính thanh khoản của dự trữ ngân hàng thương mại. Đồng thời cũng đem lại nguồn thu nhập cho ngân hàng thương mại. Hoạt động tiền mặt là các hoạt động được sử dụng để thanh toán cho khách hàng, chúng bao gồm các giao dịch tiền mặt, tiền gửi với các ngân hàng khác và ngân hàng trung ương, nhận tiền. Mặc dù hoạt động ngân quỹ không phải là hoạt động mang lại lợi nhuận nhưng lại rất quan trọng đối với các ngân hàng thương mại vì giúp tạo dựng uy tín tín dụng và chi trả cho khách hàng. Các hoạt động khác. Đây là các hoạt động được thực hiện theo sự ủy thác của khách hàng: bảo lãnh thanh toán hàng hóa, dịch vụ quản lý tài sản, cung cấp thông tin và tư vấn về kinh doanh, đầu tư và quản trị doanh nghiệp. Các hoạt động này góp phần quan trọng trong việc mở rộng hoạt động tạo vốn của doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả hoạt động và sử dụng vốn.
Vai trò của ngân hàng thương mại (NHTM):
Ngân hàng thương mại giúp công ty có vốn đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, nâng cao hiệu quả kinh doanh. Trong nền kinh tế thị trường, để mở rộng quy mô sản xuất, doanh nghiệp phải có vốn lớn để đổi mới thiết bị, công nghệ lạc hậu, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật hiện đại. Trong điều kiện đó, các ngân hàng thương mại một mặt đáp ứng đầy đủ và nhanh chóng nhu cầu vốn còn thiếu, cung ứng dịch vụ thanh toán và các dịch vụ khác giúp doanh nghiệp thực hiện tốt hoạt động sản xuất kinh doanh. Mặt khác, thông qua các nghiệp vụ tín dụng, thanh toán và ngoại hối, NHTM giúp doanh nghiệp nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Ngân hàng thương mại góp phần phân bổ nguồn lực hợp lý giữa các vùng trong cả nước, tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển cân đối. Trong nền kinh tế thị trường, các ngân hàng thương mại một mặt góp phần hình thành, duy trì và phát triển nền kinh tế theo cơ cấu ngành, khu vực nhất định. Mặt khác, NHTM góp phần điều chỉnh các ngành, các vùng khi có sự phát triển mất cân đối, hoặc khi cần có sự thay đổi để đáp ứng nhu cầu của thị trường. Ngân hàng thương mại tạo môi trường thực hiện chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương. Việc hoạch định chính sách tiền tệ là trách nhiệm của Ngân hàng Trung ương. Để thực hiện chính sách tiền tệ, phải sử dụng các công cụ như lãi suất, dự trữ bắt buộc và thị trường mở. Chính các ngân hàng thương mại là đối tượng trực tiếp quan tâm bằng các công cụ này, đồng thời đóng vai trò chuyển tiếp bằng cách chuyển tiếp tác động của chính sách tiền tệ đến nền kinh tế. Mặt khác, cũng thông qua các ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính trung gian khác, tình hình sản xuất, giá cả, việc làm, nhu cầu thanh khoản, lãi suất và ngoại hối trong nền kinh tế được chuyển đến NHTW để NHTW có những biện pháp thích hợp. chính sách điều tiết cho từng tình huống cụ thể. Ngân hàng thương mại là cầu nối cho sự phát triển kinh tế đối ngoại giữa các quốc gia. Với xu thế phát triển kinh tế theo hướng hội nhập vào cộng đồng kinh tế khu vực và thế giới, việc mở rộng và giao lưu kinh tế là tất yếu, giúp các quốc gia phát huy được lợi thế của mình. Để hỗ trợ đắc lực cho các hoạt động kinh tế này đạt hiệu quả cao, giúp khẳng định vị thế và tăng khả năng cạnh tranh của DN trên trường quốc tế, vai trò của NHTM là hết sức cần thiết thông qua nghiệp vụ tài trợ xuất nhập khẩu, quan hệ thanh toán với các định chế tài chính , ngân hàng và các công ty quốc tế, giúp đảm bảo các giao dịch thanh toán, mua bán diễn ra nhanh chóng, thuận tiện, an toàn và hiệu quả. Quá trình hình thành và phát triển của Ngân hàng Việt Nam:
Ở Việt Nam, trước khi Pháp đến nước ta, người dân hầu như không biết ngân hàng là gì, nền kinh tế còn ở tình trạng nghèo nàn lạc hậu, chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp. Các cơ sở sản xuất lớn chưa hình thành, tiểu thủ công nghiệp ở các làng nói chung là hoạt động gia đình, sản xuất nhỏ, không đòi hỏi nhiều vốn. Hoạt động kinh doanh trong nước và quốc tế không phải là vật chất. Người trong nước còn nghèo, hết tiền, có nơi không có của cải để gửi, không có trường hợp gửi tiền ra nước ngoài. Do đó, việc các chi nhánh cung cấp các dịch vụ ngân hàng là không cần thiết. Từ giữa thế kỷ 19, Pháp xâm lược nước ta và cuối thế kỷ 19, nước ta trở thành thuộc địa của Pháp. Tại các đô thị Việt Nam, thực dân Pháp thành lập các công ty xuất nhập khẩu lớn, các nhà máy sản xuất lớn như nhà máy xi măng, nhà máy giấy, thuốc lá, sợi, đường, rượu, ngoài ra chúng còn thành lập các đồn điền lớn, trang trại lớn. Các hoạt động kinh tế của người Pháp phát triển rất rộng rãi nên người Pháp phải lập ra các ngân hàng để hỗ trợ hoạt động của họ. Lúc đầu, hai ngân hàng Pháp được thành lập, có trụ sở chính đặt trong nước, nhưng chi nhánh đặt tại các thành phố lớn của Việt Nam như Ngân hàng Đông Dương, Ngân hàng Pháp - Hoa. Ngân hàng Đông Dương là tổ chức tài chính lớn nhất của chính phủ và các nhà tài phiệt Pháp. Ngoài chức năng độc quyền phát hành tiền tệ với tư cách là ngân hàng trung ương, Banque d'Indochine còn là ngân hàng thương mại và công thương lớn nhất - cung cấp vốn cho mọi hoạt động kinh tế của người Pháp tại Đông Dương: La Compagnie Hải Phòng - Chemin de fer Vân Nam, Hồng Gai - Công ty than Cẩm Phả, Công ty rượu Đông Dương, Công ty xi măng Hải Phòng, Công ty sợi Nam Định, Công ty mía đường Hiệp Hòa, Công ty cao su Đất Đỏ. Ngân hàng lớn thứ hai của Pháp là Ngân hàng Pháp - Hoa được thành lập để hỗ trợ các giao dịch thương mại giữa Pháp, Đông Dương và Trung Quốc, và một số nước châu Á (Nhật Bản, Thái Lan.)
Ngoài ngân hàng Pháp, các nước châu Âu có lợi ích kinh tế ở châu Á, nổi bật là Vương quốc Anh, cũng đã thành lập ngân hàng tại cảng Việt Nam (Sài Gòn, Hải Phòng) như: Chi nhánh hai nước The Chartered Bank và The Hongkong and Sanghai Banking Corporation (HSBC). Trung Quốc cũng đã mở chi nhánh tại các cảng Việt Nam: Ngân hàng Trung Quốc và Ngân hàng Vận tải. Như vậy, từ cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, mọi hoạt động ngân hàng đều nằm trong tay người nước ngoài. Năm 1927, tại miền Nam Việt Nam, một nhóm các tập đoàn kinh tế tài chính Việt Nam đã thành lập một ngân hàng mới tại Sài Gòn, lấy tên là Ngân hàng An Nam với vốn hoàn toàn của Việt Nam, hỗ trợ nhiều nhất cho các hoạt động tài chính nông nghiệp ở Việt Nam. Nhờ quản lý tốt, ngân hàng này tồn tại đến năm 1975. Sau đó, khoảng năm 1949 - 1950, một ngân hàng Việt Nam thứ hai được thành lập: Ngân hàng Công Thương Việt Nam.
Hai cuộc chiến tranh giành độc lập, thống nhất đất nước kéo dài 30 năm (từ 1945 đến 1975) đã tạo nên một tình thế mới. Ở Việt Nam có hai hệ thống ngân hàng dưới hai chế độ chính trị khác nhau. Một hệ thống ngân hàng của chính quyền cách mạng, một hệ thống ngân hàng của chính quyền thực dân Pháp và chính quyền VNCH. Hệ thống ngân hàng của chính quyền thực dân Pháp trước cách mạng tháng 8 năm 1945 được duy trì ở Việt Nam cho đến tháng 5 năm 1955, khi thực dân Pháp rút khỏi Việt Nam. Từ tháng 5 năm 1955 đến tháng 4 năm 1975, chính phủ miền Nam Việt Nam đã thành lập hệ thống ngân hàng kinh tế thị trường. Đến giữa năm 1971, có 30 ngân hàng Việt Nam ở miền Nam. Các ngân hàng lớn nhất của Việt Nam là: Ngân hàng Quốc gia Việt Nam, Việt Nam Thương Tín (thủ phủ của chính phủ miền Nam), Ngân hàng Công thương Việt Nam, Ngân hàng Sài Gòn, Ngân hàng Đại Nam. Ngoài ra, một số ngân hàng nước ngoài cũng đã mở chi nhánh tại Việt Nam: Bank of American, Chase Manhattan Bank, BangKok Bank, Bank of Tokyo. Hệ thống ngân hàng của chính quyền miền Nam được chia thành hai cấp rõ ràng, với Ngân hàng Quốc gia Việt Nam đóng vai trò là ngân hàng trung ương, trong khi các ngân hàng khác thực hiện các hoạt động tiền tệ và tín dụng. Ngày 30 tháng 4 năm 1975, hệ thống ngân hàng của chính quyền Miền Nam sụp đổ hoàn toàn. Hệ thống ngân hàng nước ta được hình thành ngay sau khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa được thành lập với các thể chế như: tín dụng nông nghiệp thuộc Bộ Canh nông (1945), tín dụng kinh tế thuộc Bộ Kinh tế (1945), phòng tín dụng sản xuất. (1947). Ngày 06/05/1951, Ngân hàng Quốc gia Việt Nam được thành lập theo Sắc lệnh số 15/LCT của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tháng 9 năm 1960, lấy tên là Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Cùng với việc thành lập Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, một số ngân hàng khác cũng được thành lập như Ngân hàng Kiến thiết Việt Nam (1957). Ngân hàng Nhà nước Việt Nam được tổ chức theo mô hình một cấp, quản lý và kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng và thanh toán. Hệ thống ngân hàng không ngừng lớn mạnh, góp phần quan trọng vào thắng lợi của hai cuộc kháng chiến giành độc lập dân tộc và thống nhất đất nước. Sau khi đất nước hoàn toàn độc lập, thống nhất, hệ thống ngân hàng đã trải qua nhiều thay đổi lớn về cơ cấu tổ chức cũng như quy mô hoạt động. Đặc biệt từ năm 1988, bằng Quyết định số 53/HĐBT ngày 26/03/1988 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ), hai Pháp lệnh về hệ thống Ngân hàng (23/05/1990), hệ thống Ngân hàng Việt Nam đã trải qua một chuyển đổi từ hệ thống ngân hàng một cấp của nền kinh tế kế hoạch hoá sang hệ thống ngân hàng hai cấp của nền kinh tế thị trường. Ngân hàng Nhà nước thực hiện chức năng quản lý nhà nước về nội tệ, ngoại tệ và tín dụng. Ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác thực hiện chức năng kinh doanh tiền tệ và các dịch vụ ngân hàng dưới sự quản lý nhà nước của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Đó là các ngân hàng dưới các hình thức sở hữu khác nhau của Việt Nam, nước ngoài hoặc đồng sở hữu của Việt Nam và nước ngoài, thực hiện đầy đủ nghiệp vụ ngân hàng hoặc ít ngân hàng với nhiều tên gọi khác nhau. . Sau khi nước ta gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) (2007), hệ thống ngân hàng đã có những bước phát triển vượt bậc và là ngành đầu tiên mở cửa hội nhập. Hiện nay, về mặt quản lý nhà nước, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có 63 chi nhánh ngân hàng đặt tại 63 tỉnh, thành phố. Theo luật các tổ chức tín dụng có hiệu lực từ ngày 01/01/2011, tại Việt Nam có các tổ chức tín dụng ngân hàng sau:
Các hình thức ngân hàng thương mại tham gia cổ phần: nhà nước, cổ phần, liên doanh,… các ngân hàng thương mại ở nước ta phát triển khá nhanh. Các ngân hàng chính trị như Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam, Ngân hàng Phát triển Việt Nam. Tổ chức tín dụng nước ngoài: Văn phòng đại diện, ngân hàng liên doanh, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng, ngân hàng 100% vốn nước ngoài, công ty tài chính liên doanh,… Ngân hàng liên doanh, hợp tác xã là ngân hàng Quỹ tín dụng nhân dân, do Nhân dân thành lập. Quỹ tín dụng và một số pháp nhân theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng, với mục đích chính là liên kết hỗ trợ tài chính, điều hòa vốn trong hệ thống các quỹ tín dụng phổ biến.
3.2 Các tổ chức tài chính phi ngân hàng
Theo Luật các tổ chức tín dụng của Việt Nam, sửa đổi năm 2010 và có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2011, thì:
Tổ chức tài chính khác ngân hàng: là loại hình tổ chức tín dụng được phép thực hiện một số hoạt động là nội dung kinh doanh thường xuyên của ngân hàng nhưng không được nhận tiền gửi của cá nhân hoặc cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản ngân hàng.
Để phân loại
Tổ chức tín dụng phi ngân hàng bao gồm:
Các công ty bảo hiểm
cấp vốn
Các công ty tài chính. Quỹ đầu tư. công ty chứng khoán. Trong nền kinh tế của chúng ta, các tổ chức tài chính phi ngân hàng đóng một vai trò quan trọng trong việc huy động vốn tương tự như ngân hàng, từ người cho vay - người tiết kiệm đến người đi vay - người đi vay chi tiêu. Ngày nay, các tổ chức tài chính phi ngân hàng cạnh tranh trực tiếp hơn với các ngân hàng về các dịch vụ tương tự như ngân hàng.
Nội dung hoạt động của một số tổ chức tài chính phi ngân hàng chủ yếu
Các công ty bảo hiểm thương mại:
Mỗi ngày chúng ta phải đối mặt với khả năng xảy ra một số thảm họa có thể dẫn đến tổn thất tài chính lớn. Những tổn thất này có thể rất quan trọng so với khả năng tài chính của chúng ta, để bảo vệ chúng ta, chúng ta phải ký hợp đồng bảo hiểm với công ty bảo hiểm. Hợp đồng này sẽ trả cho chúng tôi một khoản tiền trong trường hợp xảy ra thảm họa.
Nguyên tắc quản lý bảo hiểm thương mại:
Sàng lọc: Các công ty bảo hiểm cố gắng phân biệt những người ít có khả năng gặp rủi ro với những người có nhiều khả năng gặp rủi ro hơn. Do đó, các phương pháp thu thập thông tin hiệu quả là một nguyên tắc quan trọng trong quản lý bảo hiểm. Dựa trên những thông tin thu thập được, công ty bảo hiểm có thể quyết định chấp nhận hay từ chối yêu cầu bảo hiểm của khách hàng, bởi nếu họ đưa ra bảo hiểm quá rủi ro, họ sẽ là khách hàng không có lợi với công ty bảo hiểm đó.
Phí bảo hiểm rủi ro: Đối với một công ty bảo hiểm, việc tính phí bảo hiểm dựa trên mức độ rủi ro của người được bảo hiểm là một nguyên tắc quản lý bảo hiểm hợp lý. Hạn chế: Đây là một công cụ quản lý nhằm giảm thiểu rủi ro đạo đức. Các hạn chế có thể yêu cầu một số hành vi nhất định từ phía người được bảo hiểm để đưa ra yêu cầu bồi thường khó xảy ra. Ngăn ngừa gian lận: Các công ty bảo hiểm cũng phải đối mặt với rủi ro đạo đức, vì một công ty bảo hiểm cá nhân có thể muốn lừa dối công ty và yêu cầu bồi thường mặc dù yêu cầu đó là vô căn cứ. Do đó, một nguyên tắc quản lý quan trọng đối với các công ty bảo hiểm là tiến hành các cuộc điều tra ngăn ngừa gian lận, để chỉ những người yêu cầu bồi thường chính đáng mới nhận được tiền bồi thường.
Chấm dứt bảo hiểm: Một công cụ quản lý bảo hiểm khác là sẵn sàng chấm dứt chính sách. Các công ty bảo hiểm có thể kiềm chế rủi ro đạo đức nếu họ đe dọa chấm dứt hợp đồng bảo hiểm, trong trường hợp người được bảo hiểm tham gia vào các hoạt động có khả năng tạo ra yêu cầu bồi thường. Deductible: Một số tiền cố định được khấu trừ vào tổn thất của người được bảo hiểm khi được thanh toán. Mức khấu trừ là một công cụ quản lý giúp công ty bảo hiểm giảm thiểu rủi ro đạo đức, mức khấu trừ là phần mà người được bảo hiểm sẽ cùng gánh chịu tổn thất với công ty bảo hiểm khi bồi thường. Đồng bảo hiểm: Khi một người được bảo hiểm chia sẻ phần trăm tổn thất với một công ty bảo hiểm, một thỏa thuận như vậy được gọi là đồng bảo hiểm. Đồng bảo hiểm CC làm giảm rủi ro đạo đức do người được bảo hiểm gây ra tổn thất với công ty bảo hiểm, vì vậy họ sẽ ít sẵn sàng thực hiện hành động liên quan đến yêu cầu bồi thường. Như vậy, đồng bảo hiểm là một công cụ quản lý rất hữu ích cho các công ty bảo hiểm. Giới hạn số tiền bảo hiểm:
Một nguyên tắc quan trọng khác của quản lý bảo hiểm là nên có giới hạn về số tiền bảo hiểm phải trả cho khách hàng, bởi vì số tiền bảo hiểm càng lớn thì người được bảo hiểm càng dễ tham gia vào hoạt động có rủi ro, khiến khả năng chi trả bảo hiểm càng cao. và do đó rủi ro đạo đức lớn hơn. Các công ty bảo hiểm cần đảm bảo rằng yêu cầu bồi thường của họ không cao đến mức rủi ro đạo đức dẫn đến tổn thất đáng kể.
Các loại công ty bảo hiểm:
Các công ty bảo hiểm nhân thọ: Công ty bảo hiểm nhân thọ đầu tiên ở Mỹ (Presbyterian Ministrys' Fund ở Philadelphia) được thành lập năm 1759 và vẫn tồn tại. Có khoảng 2.000 công ty bảo hiểm nhân thọ ở Hoa Kỳ được tổ chức theo hai cách:
Một loại là công ty cổ phần: thuộc sở hữu của các cổ đông. Một loại là công ty bảo hiểm tương hỗ: thuộc sở hữu của các chủ hợp đồng. Có hai loại hợp đồng bảo hiểm nhân thọ chính:
Bảo hiểm nhân thọ thông thường (như bảo hiểm trọn đời, bảo hiểm nhân thọ biến đổi...). Bảo hiểm nhân thọ có kỳ hạn (ví dụ: bảo hiểm có kỳ hạn). Các chính sách bảo hiểm nhân thọ vĩnh viễn có phí bảo hiểm không thay đổi trong suốt thời gian của chính sách. Ngược lại, bảo hiểm có kỳ hạn có phí bảo hiểm tỷ lệ thuận với số tiền cần thiết để chi trả cho trường hợp tử vong trong suốt thời hạn (ví dụ: một năm hoặc năm năm).
Công ty bảo hiểm thiệt hại:
Các công ty bảo hiểm P&C được tổ chức dưới dạng công ty cổ phần và tương hỗ, hoạt động tương tự như các công ty bảo hiểm nhân thọ. Các công ty bảo hiểm P&C hoạt động không tốt trong những năm gần đây do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2007 và lạm phát gần đây.
Công ty bảo hiểm tài sản và thiệt hại sẽ bồi thường cho những tổn thất do hầu hết các tình huống xảy ra như hỏa hoạn, trộm cắp, động đất, tai nạn xe hơi... Nếu một tổn thất nào đó có thể được bảo hiểm là quá lớn đối với một công ty, thường thì nhiều công ty sẽ hợp tác với nhau để phát hành một bảo hiểm. chính sách bảo hiểm để chia sẻ rủi ro.
Cấp vốn;
Ở các nước phát triển trên thế giới, thực hiện chức năng trung gian tài chính, quỹ hưu trí sẽ chi trả thu nhập hưu trí cho người dân. Người sử dụng lao động, tổ chức hoặc cá nhân có thể cung cấp các chương trình tài trợ để thu tiền từ những người tham gia chương trình. Tuy mục đích của tất cả các chương trình trợ cấp là như nhau, các chương trình này có thể khác nhau theo một số các đặc tính:
Thứ nhất, là điều kiện để thuộc vào chương trình, tức là số thời gian mà một cá nhân phải được ghi tên vào chương trình trợ cấp đó (do là một thành viên của một liên hiệp hoặc do là một người làm thuê cho một công ty) trước khi được quyền nhận trợ cấp. Nói chung các công ty đòi hỏi một người làm thuê làm việc năm năm cho công ty, trước khi người đó được coi là đủ điều kiện thuộc về một chương trình và có thể nhận các trợ cấp, nếu người làm thuê đó rời bỏ công ty đó trước khi đủ năm nâ..i, dù là tự ý ra đi hoặc bị thải hồi, tất cả quyền hưởng trợ cấp bị mất. Thứ hai, là phương pháp thanh toán, nếu các khoản trợ cấp được xác định bằng các khoản đóng góp vào chương trình và các khoản thu nhập, thì sự trợ cấp này là một chương trình đóng góp được định rõ; nếu các khoản tiền thanh toán thu nhập tương lai (các khoản trợ cấp, được đề ra từ trước), thì sự trợ cấp này là một chương trình trợ cấp được định rõ. Một chương trình trợ cấp được định rõ, gọi là được cấp vốn đủ nếu các khoản đóng góp vào chương trình này và các khoản thu nhập của chúng qua các năm đủ để thanh toán các khoản trợ cấp khi đến hạn thanh toán. Nếu các khoản đóng góp và các khoản thu nhập không đủ, thì chương trình như vậy được gọi là chương trình được cấp vốn thiếu. Các chương trình tài trợ riêng biệt
Các kế hoạch hưu trí tư nhân được quản lý bởi một ngân hàng, công ty bảo hiểm nhân thọ hoặc người quản lý quỹ hưu trí. Trong các chương trình phúc lợi do người sử dụng lao động tài trợ, các khoản đóng góp thường được chia sẻ giữa tổ chức và nhân viên của tổ chức. Một điểm thu hút thuế quan trọng đối với các chương trình này là các khoản đóng góp của chủ lao động được khấu trừ thuế. Các kế hoạch phúc lợi của nhiều công ty là các chương trình được cấp vốn dưới mức vì họ dự kiến sẽ thanh toán nghĩa vụ trợ cấp của mình từ thu nhập hiện tại khi các phúc lợi hết hạn. Miễn là các công ty có đủ doanh thu, việc cấp vốn dưới mức không phải là vấn đề, nhưng điều này không phải lúc nào cũng đúng, do những khó khăn tiềm ẩn trong việc cấp vốn dưới mức cho công ty, do quản lý kém, gian lận và các hành vi lạm dụng quỹ hưu trí tư nhân khác. Các chương trình hỗ trợ công cộng
Chế độ hưu trí công quan trọng nhất là bảo hiểm xã hội, bảo hiểm cho hầu hết người lao động trong khu vực tư nhân. Vốn đến từ séc đã thanh toán và thuế biên chế từ người sử dụng lao động. Quyền lợi bảo hiểm xã hội bao gồm thu nhập hưu trí, thanh toán y tế và hỗ trợ tàn tật. Ở Việt Nam, Quỹ Bảo hiểm xã hội là quỹ tài chính công, do Bảo hiểm xã hội Việt Nam quản lý theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội năm 2006 có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2007 và các quy định của pháp luật có liên quan.
Công ty tài chính:
Các công ty này huy động vốn bằng cách phát hành thương phiếu, cổ phiếu và trái phiếu và sử dụng số tiền thu được để cho vay nhằm đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp và người tiêu dùng. Trung gian tài chính của các công ty tài chính có thể được mô tả như sau: họ vay những khoản tiền lớn nhưng thường cho vay những khoản tiền nhỏ. Quá trình này hoàn toàn trái ngược với quá trình của các ngân hàng thương mại, nơi phát hành tiền gửi với số tiền nhỏ và sau đó thường cho vay số tiền lớn. Một đặc điểm chính của các công ty tài chính so với các ngân hàng và tổ chức tiết kiệm là chúng hầu như không bị kiểm soát. Họ quy định số tiền khổng lồ mà họ có thể cho người tiêu dùng cá nhân vay và các điều khoản trong hợp đồng nợ của họ, nhưng không có hạn chế về việc mở chi nhánh, tài sản mà họ nắm giữ và nhận vốn. Việc không có ràng buộc cho phép các công ty tài chính điều chỉnh khoản vay của họ phù hợp hơn với nhu cầu của khách hàng so với các tổ chức ngân hàng. Có ba loại công ty tài chính:
Các công ty tài chính hàng hóa cung cấp các khoản vay cho người tiêu dùng để mua các mặt hàng từ một nhà bán lẻ hoặc nhà sản xuất cụ thể. Ví dụ, Sears Roebuck Acceptance Corporation đã tài trợ cho việc mua tất cả hàng hóa và dịch vụ của người tiêu dùng tại các cửa hàng Sear, trong khi General Motor Acceptance Corporation tài trợ cho việc mua ô tô GM. Các công ty tài chính bán hàng trực tiếp cạnh tranh với các ngân hàng để cho vay tiêu dùng và được người tiêu dùng sử dụng vì các khoản vay thường được thực hiện nhanh hơn và dễ dàng hơn tại điểm bán hàng. Các công ty tài chính tiêu dùng cho người tiêu dùng vay tiền để mua các vật dụng cá nhân, chẳng hạn như đồ nội thất và thiết bị gia dụng, để cải thiện ngôi nhà của họ hoặc để giúp trả các khoản nợ nhỏ. . Các công ty tài chính tiêu dùng là các công ty riêng biệt (chẳng hạn như Household Finance Corporation) hoặc thuộc sở hữu của các ngân hàng (Citicorp sở hữu công ty tài chính cá nhân, có văn phòng ở khắp mọi nơi). Thông thường, các công ty này cho người tiêu dùng vay khi họ không có tín dụng từ các nguồn khác và tính lãi suất cao hơn. Các công ty tài chính doanh nghiệp cung cấp các loại tín dụng kinh doanh đặc biệt bằng cách mua số tiền giảm (hóa đơn nợ của công ty), với điều kiện khoản tín dụng này được gọi là bao thanh toán. Ví dụ: một công ty quần áo có thể có 100.000 đô la hóa đơn chưa thanh toán nợ các cửa hàng bán lẻ (các nhà bán lẻ đã sở hữu quần áo của họ). Nếu công ty cần tiền để mua 100 máy may lớn, công ty có thể bán sản phẩm này cho một công ty tài chính, chẳng hạn với giá 90.000 đô la, công ty tài chính lúc này có quyền đòi 100.000 đô la cho khoản nợ đó tại các cửa hàng bán lẻ nói trên. Bên cạnh nghiệp vụ bao thanh toán, các công ty Tài chính Doanh nghiệp cũng chuyên cho thuê thiết bị (ví dụ như xe lửa, máy bay, máy tính) mà họ mua và sau đó cho các doanh nhân khác thuê trong vài năm. Quỹ đầu tư (quỹ ủy thác đầu tư, quỹ tương hỗ)
Định nghĩa: Quỹ đầu tư (hay còn gọi là công ty đầu tư, hay còn gọi là quỹ tương hỗ) là một tổ chức tài chính phi ngân hàng huy động vốn từ người tiết kiệm thông qua việc bán chứng khoán. chỉ góp vốn và sử dụng số tiền thu được chủ yếu để đầu tư vào chứng khoán. Bằng cách tập hợp vốn của những người đầu tư để đưa vào quá trình đầu tư, các quỹ đầu tư đã tạo lập điều kiện cho nhừng người tiết kiệm nhỏ có cơ hội đầu tư vào các khoản mục lớn mà bản thân họ không thể thực hiện được, thực chất đấy là hình thức chung vốn đầu tư giữa các cá nhân và các tổ chức, nhằm tăng tính chuyên nghiệp của việc đầu tư, tạo điều kiện giảm thiểu rủi ro và các chi phí liên quan đến quá trình đầu tư. Mục tiêu của quỹ đầu tư là tăng trưởng vốn, tức là tăng giá thị trường của tài sản có, làm cho giá trị của mồi cổ phần tăng lên so với giá trị ban đầu. Tùy theo luật pháp và tập quán mà quỹ đầu tư có thể là quỹ đóng hay quỹ mở: quỹ đầu tư dạng mở là quỹ có thể phát hành liên tục cố phiếu (chứng chỉ đầu tư) ra công chúng và người đầu tư có quyền bán lại các chứng khoán cho quỹ, và quỹ sẵn sàng mua lại cố phiếu của cố đông bất cứ lúc nào, với giá được xác định theo giá tài sản ròng của cổ phiếu quỹ, cả giá mua lại và giá ban đầu đều gắn liền với giá trị tài sản có của quỹ tại thời điểm mua bán, số vốn của quỹ không ngừng thay đổi. Với quỹ đầu tư mở, các cổ phiếu quỹ có tính thanh khoản cao hơn trên thị trường chứng khoán. Quỹ đầu tư dạng đóng chỉ phát hành duy nhất một lần cổ phiếu quỹ đầu tư ra công chúng, và người đầu tư không có quyền bán lại cổ phiếu quỹ đầu tư cho quỹ, trước thời hạn kết thúc hay giải thể. Điều này có nghĩa là nhà đầu tư không thể rút vốn khỏi quỹ và quỹ không có nghĩa vụ phải mua lại các chứng chỉ đã phát hành. Tuy nhiên, nhà đầu tư háo vốn có thể bán lại cổ phiếu quỹ trên sàn chứng khoán. Quỹ tương hỗ thị trường tiền tệ là một trong những quỹ tương hỗ quan trọng nhất. Loại quỹ này đầu tư vào chứng khoán nợ ngắn hạn có chất lượng rất cao. Ví dụ: Tín phiếu kho bạc, thương phiếu, chứng chỉ tiền gửi ngân hàng... Tên công ty:
Là các công ty hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán với hoạt động chính là môi giới, bảo lãnh phát hành, quản lý danh mục đầu tư và tư vấn đầu tư chứng khoán. Hiện nay, các công ty môi giới, kinh doanh chứng khoán đã tích cực mở rộng phạm vi hoạt động. Ngoài dịch vụ môi giới để hưởng hoa hồng, họ còn trực tiếp mua bán chứng khoán để hưởng chênh lệch giá. Đây là lĩnh vực tiềm ẩn nhiều rủi ro do giá cổ phiếu biến động liên tục.
Nội dung bài viết:
Bình luận