
1. Một số nhận thức cơ bản về thương mại quốc tế
1.1. Khái niệm và đặc điểm của thương mại quốc tế
Trong nền kinh tế thị trường, việc trao đổi hàng hóa và dịch vụ là điều kiện quan trọng cho sự tồn tại và phát triển của xã hội. Các hoạt động mua bán này được gọi chung là hoạt động mua bán. Trước đây, hoạt động kinh doanh chỉ là hoạt động mua bán hàng hóa, tuy nhiên, khái niệm này không còn phù hợp trong bối cảnh ngày nay. Theo Khoản 3 Luật Thương mại 2005, hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích kiếm sống. Mua bán hàng hóa là hoạt động thương mại, theo đó bên bán giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua và nhận tiền; người mua có nghĩa vụ trả tiền cho người bán, nhận hàng và chiếm hữu hàng hóa theo thỏa thuận. Cung ứng dịch vụ là hoạt động kinh doanh trong đó một bên (bên cung ứng dịch vụ) có nghĩa vụ cung cấp dịch vụ cho bên kia và nhận tiền thanh toán; bên sử dụng dịch vụ (khách hàng) có nghĩa vụ thanh toán cho bên cung ứng dịch vụ và phải sử dụng dịch vụ theo thỏa thuận. Đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn bằng tài sản hữu hình hoặc vô hình để hình thành tài sản và thực hiện hoạt động đầu tư theo quy định của Luật Đầu tư và các quy định khác của pháp luật có liên quan. Xúc tiến kinh doanh là hoạt động nhằm xúc tiến, tìm kiếm cơ hội mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, bao gồm hoạt động khuyến mại, quảng cáo thương mại, trưng bày, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ, hội chợ. , triển lãm thương mại. Hoạt động trung gian thương mại là hoạt động của thương nhân nhằm thực hiện các giao dịch thương mại cho một hoặc một số thương nhân xác định, cụ thể là thay mặt thương nhân, đại lý môi giới thương mại, đại lý mua bán hàng hóa, đại lý thương mại. Hoạt động kinh doanh quốc tế là hoạt động kinh doanh có yếu tố nước ngoài. Bản chất của hoạt động thương mại quốc tế thể hiện ở những đặc điểm cơ bản sau: Đối tượng của giao dịch (Bên mua và bên bán hay còn gọi là thương nhân) là những người có quốc tịch hoặc có nơi cư trú (hoặc trụ sở đăng ký) ở các quốc gia khác nhau. Chủ thể có thể là cá nhân, tổ chức, pháp nhân hoặc thể nhân. Đối tượng của giao dịch là hàng hóa, được chuyển từ khu vực tài phán này sang khu vực tài phán khác. Theo quan điểm trước đây, hàng hóa tham gia hoạt động thương mại quốc tế là hàng hóa phải đi qua biên giới quốc gia, từ quốc gia này sang quốc gia khác. Đồng tiền thanh toán có thể là ngoại tệ của một bên hoặc của cả hai bên. Nguồn luật áp dụng bao gồm: pháp luật trong nước, điều ước quốc tế, pháp luật nước ngoài, tập quán thương mại quốc tế... Việc áp dụng nguồn luật áp dụng phải dựa trên các nguyên tắc sau: Về áp dụng pháp luật thương mại và pháp luật có liên quan: hoạt động kinh doanh phải tuân theo pháp luật thương mại và pháp luật có liên quan. Trường hợp hoạt động thương mại cụ thể do luật khác quy định thì áp dụng quy định của luật đó. Trong trường hợp hoạt động thương mại không được quy định trong luật thương mại và luật khác thì áp dụng quy định của Bộ luật dân sự. Về áp dụng điều ước quốc tế, pháp luật nước ngoài, tập quán thương mại quốc tế: Trong trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định áp dụng pháp luật nước ngoài, cơ sở thương mại của điều ước quốc tế hoặc có quy định khác với quy định của luật thương mại thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế. Các bên trong giao dịch kinh doanh có yếu tố nước ngoài được thỏa thuận áp dụng pháp luật nước ngoài, tập quán kinh doanh quốc tế nếu pháp luật nước ngoài, tập quán kinh doanh quốc tế đó không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam. Trong thời đại ngày nay, sự giao lưu quốc tế của các nước trên thế giới ngày càng mở rộng và đa dạng, kéo theo hoạt động thương mại quốc tế ngày càng phát triển và phức tạp, điều đó càng đòi hỏi mỗi thương nhân nắm vững những kiến thức cơ bản về kỹ thuật thương mại quốc tế mới thực hiện có hiệu quả các hoạt động thương mại quốc tế.
1.2. Quản lý nhà nước về thương mại quốc tế và các nguyên tắc cơ bản trong hoạt động thương mại quốc tế
Quản lý nhà nước về thương mại quốc tế là sự quản lý (hay sự tác động và điều chỉnh) của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với các hoạt động thương mại quốc tế, nhằm thúc đẩy các hoạt động thương mại quốc tế phát triển đáp ứng những mục tiêu và yêu cầu nhất định. Nội dung quản lý nhà nước về thương mại nói chung và thương mại quốc tế nói riêng được thể hiện ở các phương diện cơ bản sau: Xây dựng và triển khai thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án phát triển thương mại quốc tế Ban hành và tổ chức thực hiện các văn bả quy phạm pháp luật về thương mại quốc tế Tổ chức và phối hợp các hoạt động quản lý thương mại quốc tế Chỉ đạo, điều hành các hoạt động thương mại quốc tế Kiểm soát các quan hệ thương mại quốc tế Thực hiện thống kê nhà nước về thương mại quốc tế Với các nội dung chủ yếu đó, quản lý nhà nước về thương mại quốc tế đã có vai trò to lớn trong việc định hướng, hướng dẫn các hoạt động thương mại quốc tế; tạo lập môi trường thương mại và cạnh tranh; hỗ trợ các thương nhân giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp thương mại quốc tế; điều tiết các quan hệ thị trường, các hoạt động thương mại quốc tế; kiểm tra, giám sát thực hiện các mục tiêu phát triển thương mại quốc tế v.v …. Các cơ quan quản lý thương mại quốc tế ở Việt Nam bao gồm: Chính phủ, Bộ công thương, các Bộ, các cơ quan ngang Bộ và Ủy ban nhân dân các cấp. Trong đó, Chính phủ là cơ quan thống nhất quản lý nhà nước về hoạt động thương mại. Bộ Công Thương chịu trách nhiệm trước Chính phủ quản lý nhà nước về hoạt động mua bán hàng hóa và các hoạt động thương mại cụ thể. Các bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ, thẩm quyền của mình có trách nhiệm quản lý nhà nước về hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực được phân công phụ trách. Ủy ban nhân dân các cấp bảo đảm quản lý nhà nước về hoạt động thương mại tại địa phương theo phân cấp của chính quyền. Nhà nước thực hiện độc quyền nhà nước về hoạt động thương mại có thời hạn đối với một số hàng hóa, dịch vụ hoặc trong những khu vực địa lý nhất định nhằm bảo đảm lợi ích quốc gia. Chính phủ quy định cụ thể danh mục hàng hóa, dịch vụ và địa bàn độc quyền Nhà nước. Đồng thời, Chính phủ thống nhất quản lý việc cấp phép cho thương nhân nước ngoài hoạt động kinh doanh tại Việt Nam. Bộ Kế hoạch và Đầu tư chịu trách nhiệm trước Chính phủ quản lý việc cấp phép cho thương nhân nước ngoài đầu tư vào Việt Nam theo quy định của pháp luật Việt Nam. Bộ Công Thương chịu trách nhiệm trước Chính phủ quản lý việc cấp phép thành lập Văn phòng đại diện của thương nhân nước ngoài tại Việt Nam; thành lập chi nhánh, công ty liên doanh, công ty 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam trong trường hợp thương nhân đó chuyên kinh doanh các mặt hàng và các hoạt động liên quan trực tiếp đến mua bán hàng hóa theo quy định của pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên ký kết. Trường hợp pháp luật chuyên ngành có quy định cụ thể về thẩm quyền của bộ, cơ quan ngang bộ chịu trách nhiệm trước Chính phủ trong việc quản lý việc cấp giấy phép cho thương nhân nước ngoài hoạt động kinh doanh tại Việt Nam thì áp dụng quy định của luật này. . Ngoài ra, còn có hiệp hội thương mại thực hiện chức năng quản lý hoạt động thương mại quốc tế. Hiệp hội thương mại được thành lập để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của thương nhân và tham gia phát triển kinh doanh, tuyên truyền, phổ biến các quy định của pháp luật về thương mại. Hội nghề nghiệp được tổ chức và hoạt động theo quy định của Luật về hội. Hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động kinh doanh quốc tế nói riêng phải dựa trên các nguyên tắc cơ bản sau: Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật của thương nhân trong hoạt động thương mại: Thương nhân thuộc mọi thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật trong hoạt động thương mại. Thương nhân Việt Nam và thương nhân nước ngoài bình đẳng trước pháp luật trong hoạt động thương mại. Nguyên tắc tự do, tự nguyện thỏa thuận trong hoạt động thương mại. Các bên có quyền tự do thỏa thuận không trái với quy định của pháp luật, đạo đức, đạo đức xã hội nhằm xác lập quyền và nghĩa vụ của các bên trong hoạt động thương mại. Nhà nước tôn trọng và bảo vệ các quyền này. Trong hoạt động thương mại, các bên hoàn toàn tự nguyện, không bên nào có hành vi áp đặt, ép buộc, đe dọa, ngăn cản bên nào. Nguyên tắc áp dụng tập quán trong hoạt động thương mại được xác lập giữa các bên. Trừ trường hợp có thỏa thuận khác, các bên được coi là áp dụng đúng tập quán trong hoạt động thương mại đã xác lập giữa các bên mà các bên đã biết hoặc phải biết nhưng không được trái với quy định của pháp luật. Nguyên tắc áp dụng tập quán trong hoạt động thương mại: Khi pháp luật không có quy định, các bên không thỏa thuận và giữa các bên không có tập quán được xác lập thì tập quán thương mại được áp dụng nhưng không được trái pháp luật. nguyên tắc được quy định trong Bộ luật Thương mại và trong Bộ luật Dân sự. Nếu không có điều ước quốc tế hoặc nếu điều ước quốc tế không có quy định, nếu các bên chưa ký kết thỏa thuận và nếu không có tập quán được thiết lập giữa các bên thì tập quán thương mại quốc tế được áp dụng nhưng không mâu thuẫn với các quy định của Đạo luật này. nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam. Nguyên tắc bảo vệ lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng: Thương nhân tham gia hoạt động thương mại phải thông báo đầy đủ, trung thực cho người tiêu dùng về hàng hóa, dịch vụ mà mình đưa ra thị trường và phải chịu trách nhiệm về tính chính xác của những thông tin này. Thương nhân tham gia hoạt động thương mại phải chịu trách nhiệm về chất lượng, tính hợp pháp của hàng hóa, dịch vụ mà mình đưa ra thị trường. Nguyên tắc thừa nhận giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu trong hoạt động thương mại. Trong hoạt động thương mại, thông điệp dữ liệu đáp ứng các điều kiện, tiêu chuẩn kỹ thuật theo quy định của pháp luật được công nhận có giá trị pháp lý như văn bản.
2. Phương thức giao dịch trên thị trường toàn cầu
2.1.Thương mại thông thường (thông thường)
2.1.1. Mua và bán trực tiếp
Giao dịch trực tiếp trong thương mại quốc tế là phương thức giao dịch trong đó người bán và người mua tương tác trực tiếp với nhau bằng cách gặp mặt trực tiếp hoặc thông qua các phương tiện thông tin như thư từ, điện tín, thư điện tử, v.v. . bàn bạc, thống nhất về hàng hóa, giá cả, phương thức thanh toán.... và các điều khoản thương mại khác. Đây là phương thức giao dịch thông thường, phổ biến nhất nên còn được gọi là phương thức giao dịch thông thường. Trong thương mại trực tiếp thông thường, người mua và người bán thương lượng trực tiếp với nhau, việc mua bán không ràng buộc và không phụ thuộc vào giao dịch trước đó. Người mua chỉ được mua mà không được bán, người bán chỉ được bán mà không được mua. Trong thương mại quốc tế, giao dịch trực tiếp ngày càng phát triển vì các phương tiện thông tin liên lạc rất phát triển, người mua và người bán có thể giao dịch trực tiếp với nhau một cách thiết thực và đơn giản. Ngoài ra, trình độ và năng lực giao dịch của các chủ thể tham gia thương mại quốc tế ngày càng cao. Để giao kết hợp đồng mua bán với nhau, bên bán (nhà xuất khẩu) và bên mua (nhà nhập khẩu) thường phải trải qua một quá trình giao dịch, đàm phán các điều khoản trong giao dịch. Trong thương mại quốc tế, mọi người thường thực hiện các hành động sau:
– Bước 1: Khảo sát. Đó là yêu cầu của người mua đối với người bán để cung cấp cho anh ta thông tin liên quan đến hàng hóa và các điều khoản của giao dịch. Nội dung yêu cầu báo giá có thể bao gồm: tên sản phẩm, quy cách, chất lượng, số lượng, thời gian giao hàng mong muốn. Mức giá mà người mua có thể trả cho món hàng thường được người mua giữ bí mật, tuy nhiên để tránh mất thời gian phân vân, người mua nêu rõ các điều khoản mà họ mong muốn để làm cơ sở cho việc định giá, chẳng hạn như: loại tiền tệ, phương thức thanh toán , điều kiện của nơi giao hàng, v.v. Yêu cầu giá không ràng buộc người yêu cầu giá. Về mặt pháp lý: Pháp luật không ràng buộc nghĩa vụ của nguyên đơn, nghĩa là nguyên đơn không có nghĩa vụ phải mua hàng hóa. Nếu không mua hàng, nguyên đơn không thể bị kiện hoặc yêu cầu bồi thường. Thắc mắc thường hỏi nhiều nơi để nhận được nhiều chào hàng cạnh tranh để so sánh và chọn ra chào hàng phù hợp nhất. Tuy nhiên, trường hợp người mua yêu cầu giá từ quá nhiều nơi sẽ gây ra tình trạng căng thẳng ảo trên thị trường. Nó không tốt cho người mua.
– Bước 2: Giá giao hàng/Đơn hàng (Offer/Order) Một đề nghị / đơn đặt hàng là một đề nghị để ký kết hợp đồng được gửi đến một hoặc nhiều người được chỉ định. Một đề nghị được gửi đến những người không xác định chỉ được coi là một lời mời để thực hiện một đề nghị. Chào hàng bao gồm chào bán và chào mua và bán (Đặt hàng). Một đề nghị có thể được đưa ra cho một thực thể cụ thể, ràng buộc hoặc không ràng buộc đối với người đặt hàng.
Chào hàng là lời đề nghị giao kết hợp đồng của người bán, không giống như yêu cầu cung cấp thông tin chỉ là lời đề nghị giao kết quan hệ thương mại. Trong thương mại quốc tế, người ta thường phân biệt hai loại chào hàng. Chào hàng tự do: Là loại chào hàng mà người bán không bị ràng buộc bởi thư chào hàng, nghĩa là người bán không thực hiện nghĩa vụ cung cấp hàng hóa cho người mua một cách rõ ràng. Loại chào hàng này thường được gửi cho nhiều người mua tiềm năng đề nghị bán nhiều, với người trả giá cao nhất hoặc là bán hoặc bán cho người mua mà người bán cho là có lợi nhất. Ưu đãi chắc chắn: Người bán cam kết giao hàng cho người mua trong một khoảng thời gian nhất định và loại ưu đãi này được gửi cho một người duy nhất. Khi người mua nhận được ưu đãi miễn phí, anh ta khó có thể trở thành người mua thực sự, nhưng khi nhận được ưu đãi chắc chắn, người nhận chắc chắn sẽ trở thành người mua, nếu anh ta chấp nhận tất cả các điều kiện quy định được nêu trong thư chào hàng trong thời gian hiệu lực của ưu đãi. lời đề nghị. Về mặt pháp lý, khi gửi chào hàng có giá trị ràng buộc cho khách hàng, người bán đã tự ràng buộc mình vào các nghĩa vụ theo các điều kiện quy định trong thư chào hàng trong thời hạn hiệu lực của thư chào hàng, nếu chào hàng có hiệu lực. khởi kiện và phải bồi thường thiệt hại. Vì vậy, khi ký kết các thư chào hàng cố định, người bán nên cân nhắc kỹ lưỡng từng chi tiết nhỏ cũng phải phù hợp với quy định của pháp luật, quyền lợi của Công ty và các bên liên quan, không để xảy ra tranh chấp, khiếu kiện hay thiệt hại.
2.b. : Lệnh (Command). Nếu thư chào hàng thể hiện ý định mua hàng của người bán và do người bán phát hành cho khách hàng của mình, thì đơn đặt hàng thể hiện ý định mua hàng của người mua, thì đó là một lời chào hàng với tư cách là người mua hàng hóa. Trong đơn đặt hàng, người mua thường ghi rõ tên hàng cần mua và yêu cầu người bán cung cấp hàng cho mình theo các điều kiện (số lượng, chất lượng, thời gian giao hàng…) do mình ấn định. Khi người bán chấp nhận hoàn toàn đơn đặt hàng trong thời hạn, hợp đồng được coi là đã được hình thành giữa người mua và người bán.
– Bước 3: Hoàn trả (Counter-offer/order). Giảm giá là một phản hồi có xu hướng chấp nhận ưu đãi nhưng chứa các bổ sung, xóa hoặc các thay đổi khác. Hoàn tiền còn được gọi là thương lượng giá. Hành động hoàn lại tiền có thể biến ưu đãi vĩnh viễn thành ưu đãi miễn phí. Về mặt pháp lý, mua lại giá thầu là khi người nhận từ chối giá thầu của người đặt giá thầu, trở thành người đặt giá thầu và đưa ra giá thầu mới làm cơ sở để ký kết hợp đồng. Phản hồi có ý chấp nhận đề nghị nhưng chứa các yếu tố bổ sung hoặc các điều khoản khác không làm thay đổi đáng kể nội dung của đề nghị được coi là chấp nhận (bước 4). )
Bước 4: Chấp nhận: là việc bên nhận chào hàng thông báo cho bên chào hàng về việc họ đã chấp nhận toàn bộ nội dung ghi trong thư chào hàng về việc chấp nhận toàn bộ nội dung nêu trong chào hàng. Việc chấp nhận chỉ được xác nhận khi chấp nhận hoàn toàn nội dung của chào hàng mà không sửa đổi các điều kiện cơ bản của chào hàng, tùy thuộc vào sự chấp nhận của chính người chào giá. Ngoài ra, chấp nhận phải còn thời hạn hiệu lực của chào hàng và chấp nhận phải được giao cho bên chào hàng. Hiệu lực pháp lý của việc chấp nhận là ký kết hợp đồng mua bán. Chấp nhận được chia thành 2 loại: Việc chấp nhận hoàn toàn vô điều kiện: với sự chấp nhận này, hợp đồng sẽ được ký kết và hợp đồng bao gồm các tài liệu sau: Chào hàng: có chữ ký của người bán. Đặt hàng: có chữ ký của người mua. Chấp nhận: có chữ ký của người mua. Khi 3 loại văn bản trên đã được ký kết thì hợp đồng được coi là đã được ký kết. Chấp nhận có điều kiện: Về cơ bản, hợp đồng chưa được ký kết và có lẽ là chưa được ký kết. Điều kiện hiệu lực chấp nhận: Phải theo hình thức mà pháp luật của mỗi nước yêu cầu (theo Điều 24 Luật Thương mại Việt Nam, hình thức chấp nhận tương tự như hình thức của hợp đồng). Phải được thực hiện trong thời gian hiệu lực của Ưu đãi hoặc Đơn đặt hàng. Nếu quá thời hạn, nghiệm thu không có giá trị Phải được sự đồng ý của người nhận giải. Chấp nhận phải được giao tận tay cho bên đề nghị hoặc bên giao thầu, nếu những người này không nhận thì chấp nhận không có giá trị pháp lý.
Bước 5: Xác thực Đó là sự tái khẳng định của thỏa thuận mua bán để tăng tính chắc chắn và để phân biệt các điều khoản cuối cùng với các điều khoản đã đàm phán ban đầu. Giấy chứng nhận có thể được cấp bởi một trong hai bên. Ví dụ: Người bán phát hành Xác nhận đặt hàng để xác nhận đã chấp nhận đơn đặt hàng do người mua gửi để xác nhận, thường được lập thành hai bản, bên ký xác nhận trước, sau đó gửi cho bên khác. Sau khi ký, bên kia giữ một bản và trả lại một bản cho người chứng thực. Khi các bên chỉ xác nhận một lần thì xác nhận này phải bao gồm hai chữ ký, thường được gọi là hợp đồng.
2.1.2. Giao dịch qua trung gian
Phương thức giao dịch kinh doanh qua trung gian là phương thức giao dịch trong đó hai bên mua và bán phải thông qua bên thứ ba để ký kết và thực hiện hợp đồng. Các trung gian trung gian phổ biến trên thị trường bao gồm: đại lý, môi giới, ủy thác mua bán tài sản.
* Đại lý thương mại (Agent): Đại lý thương mại là hoạt động thương mại, theo đó bên giao đại lý và bên đại lý thỏa thuận để bên đại lý mua, bán hàng hóa cho bên đại lý hoặc cung ứng dịch vụ cho bên giao đại lý cho khách hàng để hưởng thù lao. Bên giao đại lý là thương nhân giao hàng cho đại lý bán hoặc chuyển tiền mua hàng cho đại lý mua là thương nhân được ủy quyền cung ứng dịch vụ cho bên cung ứng dịch vụ. Đại lý là thương nhân nhận hàng hóa để làm đại lý bán, nhận tiền mua hàng để làm đại lý mua, bên được ủy quyền cung ứng dịch vụ. Thù lao đại lý được trả cho đại lý dưới hình thức hoa hồng hoặc chênh lệch giá. Đại lý có những đặc điểm cơ bản như: Bên đại lý có quyền đứng tên trong hợp đồng; Bên đại lý có quyền chiếm hữu tài sản, chịu trách nhiệm về hành vi và kết quả kinh doanh và được hưởng thù lao do bên ủy thác. Hợp đồng đại lý là hợp đồng dài hạn. Quan hệ giữa bên giao đại lý và bên đại lý là hợp đồng đại lý. Hợp đồng đại lý phải được giao kết bằng văn bản hoặc hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương. Hợp đồng đại lý bao gồm các nội dung cơ bản sau: Tên và địa chỉ của các bên tham gia hợp đồng Xác định quyền của đại lý: anh ta có phải là đại lý độc quyền hay không? Xác định các mặt hàng có thể trả lại Xác định khu vực địa lý mà đại lý hoạt động Xác định giá của hàng hóa: Giá tối đa, giá tối thiểu (khoảng giá) Nghĩa vụ của bên đại lý: tiêu thụ, thông báo, nghĩa vụ thanh toán, nghĩa vụ bảo đảm thanh toán Thời hạn hiệu lực của hợp đồng, phương thức hủy bỏ hoặc gia hạn hiệu lực của hợp đồng. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, thương nhân được phép làm đại lý mua bán các loại hàng hóa cho thương nhân nước ngoài, trừ hàng hóa thuộc Danh mục hàng hóa Việt Nam cấm xuất khẩu hoặc tạm ngừng xuất khẩu, hàng hóa thuộc Danh mục hàng hóa cấm nhập khẩu. nhập, tạm dừng nhập. Đối với hàng hóa thuộc Danh mục hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu theo giấy phép, thương nhân chỉ được ký hợp đồng đại lý sau khi có Giấy phép của Bộ Công Thương. Ngược lại, thương nhân cũng được thuê thương nhân nước ngoài làm đại lý bán hàng ở nước ngoài cho các loại hàng hóa, trừ hàng hóa thuộc Danh mục hàng hóa cấm xuất khẩu, tạm ngừng xuất khẩu, tạm ngừng xuất khẩu;'' xuất khẩu. Đối với hàng hóa thuộc Danh mục hàng hóa xuất khẩu theo giấy phép, thương nhân chỉ được ký hợp đồng thuê đại lý bán hàng ở nước ngoài sau khi được Bộ Công Thương cho phép. Tùy theo sự phân chia trách nhiệm và nghĩa vụ giữa bên giao đại lý và bên đại lý mà có nhiều hình thức đại lý khác nhau. Các hình thức đại lý chính được pháp luật Việt Nam công nhận bao gồm: Đại lý loại bỏ: Là hình thức đại lý trong đó bên đại lý mua và bán toàn bộ khối lượng hàng hóa hoặc cung cấp toàn bộ dịch vụ cho bên giao đại lý. Đại lý độc quyền: là hình thức đại lý mà tại một khu vực địa lý nhất định, bên giao đại lý chỉ cử một đại lý duy nhất để mua bán một hoặc nhiều hàng hóa hoặc cung ứng một loại dịch vụ nhất định. . Tổng đại lý mua bán hàng hóa và cung ứng dịch vụ: là hình thức đại lý, trong đó bên đại lý tổ chức hệ thống các đại lý trực thuộc để thực hiện việc mua bán hàng hóa và cung ứng dịch vụ cho bên giao đại lý. Tổng đại lý đại diện cho hệ thống đại lý trực thuộc. Đại lý trực thuộc hoạt động dưới sự chỉ đạo của tổng đại lý và với danh nghĩa của tổng đại lý. * Môi giới thương mại (broker) Môi giới thương mại là hoạt động kinh doanh, theo đó thương nhân làm trung gian (gọi là bên môi giới) cho các bên mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ (gọi là bên thương lượng) trong việc đàm phán, giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa, dịch vụ và hưởng thù lao theo hợp đồng môi giới. Những người môi giới không đứng tên trong hợp đồng mua bán mà đứng tên người ủy thác. Người môi giới không chịu trách nhiệm về kết quả của giao dịch và được người ủy thác trả thù lao. Hợp đồng môi giới dựa trên cơ sở ủy thác theo lượt. Hợp đồng môi giới có các nội dung cơ bản sau: Tên và địa chỉ của các bên Nội dung công việc môi giới Trách nhiệm môi giới Mức thù lao và thanh toán thù lao Thời hạn hiệu lực của hợp đồng
* Ủy thác mua bán hàng hóa: Điều 155 Bộ luật Thương mại định nghĩa: Ủy thác mua bán hàng hóa là hoạt động thương mại, theo đó bên ủy quyền thực hiện việc mua bán hàng hóa với danh nghĩa của mình theo các điều kiện đã thỏa thuận với bên nhận ủy thác và nhận thù lao hoa hồng. Việc sử dụng các trung gian thương mại có những ưu điểm như: Các trung gian thường quen thuộc với tình hình thị trường, luật pháp và tập quán địa phương nên có khả năng xúc tiến thương mại và giảm thiểu rủi ro cho bên ủy thác. Bằng cách sử dụng các trung gian, đặc biệt là các đại lý có cơ sở vật chất nhất định, người được ủy thác giảm chi phí đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Nhờ có sự phục vụ của một bên trung gian trong việc lựa chọn, phân loại và đóng gói, bên nhận ủy thác có thể giảm được chi phí vận chuyển. Hình thành mạng lưới buôn bán và tiêu thụ rộng khắp, tạo điều kiện thuận lợi để chiếm lĩnh và mở rộng thị trường. Trong thương mại quốc tế, nhiều trung gian thương mại có tiềm lực tài chính lớn, thậm chí có khi cung cấp tín dụng cho bên ủy thác. Tuy nhiên, việc sử dụng trung gian có những nhược điểm như: Nhà kinh doanh mất liên hệ trực tiếp với thị trường; Việc kinh doanh, buôn bán phụ thuộc vào khả năng và phẩm chất của người trung gian nên thường phải gánh chịu hậu quả và rủi ro; Thương nhân cũng thường phải giải quyết các khiếu nại thường không có lợi cho họ do các đại lý hoặc nhà môi giới đưa ra; Lợi nhuận được chia sẻ….
2.2. giao dịch truy cập
2.2.1. Ý tưởng
Buôn bán đối lưu là phương thức trao đổi hàng hoá, trong đó xuất khẩu kết hợp với nhập khẩu, người bán đồng thời là người mua, lượng hàng giao có giá trị tỷ lệ thuận với lượng hàng nhận.
2.2.2. Đặc điểm của giao dịch bù trừ Giá trị sử dụng của hàng hoá được đặt lên hàng đầu vì hoạt động trao đổi hàng hoá giữa các đối tác với nhau chỉ nhằm thoả mãn một nhu cầu nào đó, các đối tác ít quan tâm đến giá trị của hàng hoá. Tiền trong phương thức này chỉ là phương tiện tính toán, nghĩa là các bên đối tác quy định giá cả hàng hóa để trao đổi với nhau. Yêu cầu liên quan đến cân bằng lợi ích giữa các bên. Sự cân bằng này thể hiện ở các mặt sau: Cân đối các mặt hàng: hàng quý đối với hàng quý, mặt hàng tồn kho, mặt hàng tồn kho khó bán, mặt hàng tồn kho khó bán. Cân đối về điều kiện giao hàng: Xuất CIF phải nhập CIF, xuất FOB phải nhập FOB. Cân đối về tổng giá trị: Tổng giá trị của hàng hoá mua bán phải tương đối bằng nhau
. 2.2.3. Các hình thức mua bán đối lưu a/ Hình thức hàng đổi hàng Tùy theo nhu cầu của mình, hai bên mua bán trực tiếp trao đổi hàng hóa có giá trị ngang nhau hoặc gần như ngang nhau, việc giao nhận hàng hóa giữa các bên diễn ra gần như đồng thời. Nếu giá trị hàng hóa hai bên trao đổi tương đương nhau thì không quy đổi tiền; Nếu sự khác biệt về giá trị của hàng hóa được giao bởi cả hai bên được phép, sự khác biệt có thể được sử dụng để thanh toán. Hai bên giao hàng có thể sử dụng tiền mặt để thể hiện giá trị hàng hóa trao đổi hoặc có thể không sử dụng. Nếu được sử dụng, giá chỉ có tác dụng đối với việc so sánh giá trị của hàng hóa được trao đổi. Trong thương mại hàng đổi hàng cổ điển, chỉ có hai bên tham gia trao đổi. Trong thương mại hàng đổi hàng hiện đại, có thể thu hút 3-4 người tham gia. b) Hình thức mua đối ứng hay còn gọi là mua đối lưu, mua song song. Mua đối ứng là phương thức giao dịch trong đó hai bên mua sản phẩm của nhau. Phương thức mua đối ứng sử dụng tối đa hai hợp đồng vừa độc lập vừa có liên quan với nhau. Mua đối ứng cũng có thể sử dụng một hợp đồng nhưng có hai đối tượng trao đổi, tức là có thể quy định tên, số lượng, giá cả, số tiền của hàng cầm cố được mua lại trong cùng một thời điểm. thiết bị, máy móc…. Tuy nhiên, trong thực tế kinh doanh điều này đôi khi khó thực hiện nên nhiều trường hợp chỉ đưa ra những quy định mang tính nguyên tắc về điểm này, chỉ quy định số lượng mua ngược lại, các chi tiết khác được ký kết một hợp đồng cụ thể theo thời gian đã thỏa thuận. Điểm đặc biệt của mua bán đối ứng là nó không phải là hoạt động trao đổi hàng hóa đơn thuần như hình thức hàng đổi hàng mà là một giao dịch thanh toán bằng tiền mặt. Điểm khác biệt với giao dịch thông thường là bên xuất khẩu cam kết mua lại hàng hóa của bên kia ngay trong hợp đồng đầu tiên và không yêu cầu trao đổi ngang giá. c/ Hình thức mua lại sản phẩm (Reemption) Thực tế ở một số nước có tình trạng thiết bị mua ở nước ngoài nhưng không đủ ngoại tệ để thanh toán hoặc sản phẩm sản xuất ra không tìm được thị trường tiêu thụ. Vì vậy đã xuất hiện hình thức đổi trả sản phẩm. Mua lại sản phẩm là hình thức một bên cung cấp toàn bộ thiết bị và/hoặc sáng chế, bí quyết kỹ thuật cho bên kia và đồng ý mua lại sản phẩm do thiết bị, sáng chế hoặc bí quyết kỹ thuật đó tạo ra. Phương thức này thường được sử dụng trong các giao dịch chuyển giao công nghệ. Thông thường, giá trị mua hàng thường lớn hơn giá trị thiết bị. Từ phí nhập khẩu thiết bị, để không ảnh hưởng đến thu nhập tiền tệ xuất khẩu, họ thường không muốn sử dụng các sản phẩm xuất khẩu truyền thống của mình để bù đắp mà muốn cung cấp các sản phẩm thứ cấp mà họ có ý định mở rộng xuất khẩu hoặc có ý định xuất khẩu. . Nhưng từ phía nhà cung cấp thiết bị, họ thường mong đợi nhận được những sản phẩm bán chạy trên thị trường quốc tế hoặc những sản phẩm họ cần. Việc thống nhất hai khía cạnh này là rất khó thực hiện nên biểu mẫu này được sửa đổi cho phù hợp. d) Hình thức bồi thường (Bồi thường) Là hình thức trao đổi đối lưu mở rộng từ trao đổi từng hàng hóa riêng lẻ sang một tập hợp hàng hóa. Trong mua bán đối lưu, hai bên trao đổi hàng hoá trên cơ sở ghi nhận trị giá hàng giao và hàng nhận. Hết thời hạn hai bên sẽ đối chiếu sổ sách, so sánh giá trị hàng giao với giá trị hàng nhận. Nếu sau khoản bồi thường này vẫn còn số dư thì số tiền này sẽ được giữ lại để thanh toán, theo yêu cầu của chủ nợ, các chi phí của chủ nợ tại quốc gia của con nợ. Các hợp đồng bồi thường thường được ký kết trong một thời gian dài, đôi khi lên đến 10 hoặc 20 năm. đ/ Chuyển nợ hay còn gọi là mua bán trao tay, mua bán tam giác (Switch) Người nhận chuyển nghĩa vụ thanh toán cho bên thứ ba thì bên thứ ba có nghĩa vụ thanh toán tiền hàng. Hình thức này đảm bảo rằng các doanh nghiệp nhận được lô hàng không phù hợp có thể bán số hàng hóa đó. f/ Hình thức giao dịch bồi hoàn hay còn gọi là giao dịch bù trừ Đó là về việc trao đổi hàng hóa hoặc dịch vụ để lấy dịch vụ và ưu đãi (có lợi cho đầu tư hoặc giúp bán sản phẩm). Giao dịch này thường xảy ra trong lĩnh vực thương mại công nghệ quân sự đắt tiền, trong việc cung cấp các bộ phận và lắp ráp trong khuôn khổ hợp tác công nghiệp. Có hai loại giao dịch bồi hoàn, bồi thường trực tiếp và bồi thường gián tiếp. Trong khoản bồi hoàn trực tiếp, lợi ích hoàn lại được gắn với sản phẩm ban đầu. Bên xuất khẩu đồng ý trước để mua các thành phần hoặc sản phẩm bị ảnh hưởng từ bên nhập khẩu hoặc sử dụng chúng trong các sản phẩm được bán cho bên nhập khẩu. Có thể bên xuất khẩu cung cấp công nghệ hoặc đầu tư cho bên nhập khẩu sản xuất linh kiện này. Loại bồi hoàn này đôi khi còn được gọi là “hợp tác công nghiệp”. Trong khoản bồi hoàn gián tiếp, lợi ích hoàn tiền không gắn với sản phẩm ban đầu.
2.3. gia công quốc tế
2.3.1. Ý tưởng
Điều 178 Bộ luật Thương mại định nghĩa: Gia công thương mại là hoạt động thương mại, theo đó bên nhận gia công sử dụng một phần hoặc toàn bộ nguyên liệu, vật liệu của bên đặt gia công để thực hiện một hoặc một số hoạt động gia công thuộc nhiều công đoạn của quá trình sản xuất tại cơ sở. yêu cầu bên đặt gia công nhận tiền công. Gia công phần mềm quốc tế là hoạt động gia công thương mại trong đó nhà cung cấp giao nguyên liệu thô và/hoặc thông số kỹ thuật cho bên nhận gia công. Bên nhận tổ chức sản xuất, xuất trả sản phẩm và nhận thù lao. Cả hai bên có quốc tịch khác nhau hoặc kinh doanh ở các quốc gia khác nhau. Tất cả các loại hàng hóa đều có thể gia công, trừ hàng cấm buôn bán. Trường hợp chuyển đổi hàng hóa cho thương nhân nước ngoài để đưa ra nước ngoài tiêu thụ, hàng cấm kinh doanh, cấm xuất khẩu, nhập khẩu được phép chuyển đổi nếu được phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
2.3.2. Các hình thức gia công quốc tế
Gia công phần mềm quốc tế có nhiều hình thức khác nhau: Về quyền sở hữu vật liệu: gia công quốc tế có thể được thực hiện theo các cách sau: Hiệu trưởng giao nguyên vật liệu, thu sản phẩm và thanh toán tiền gia công. Trong thời gian sản xuất, quyền sở hữu nguyên liệu thô của nhà sản xuất thuộc về nhà thầu phụ. Mua bán lại: Bên nhận gia công bán nguyên vật liệu cho bên đặt gia công, hết thời gian sản xuất, chế tạo sẽ mua lại sản phẩm. Trong trường hợp này, quyền sở hữu nguyên liệu được chuyển từ nhà cung cấp sang bộ xử lý. Theo hình thức mua bán, bên nhận thầu “bán lại” nguyên vật liệu và kỹ thuật cho bên nhận gia công. Sau thời gian tổ chức sản xuất, bên nhận gia công giao thành phẩm và bên nhận gia công thanh toán tiền sản phẩm. Hoặc là nhà thầu phụ đặt hàng và cung cấp tài liệu kỹ thuật, bên nhận gia công nhập nguyên liệu và sản xuất thành phẩm theo tiêu chuẩn của nhà cung cấp. Tiền gốc trả cho sản phẩm. Ngoài ra, còn áp dụng hình thức kết hợp, trong đó bên giao thầu chỉ cung cấp nguyên liệu chính, bên nhận gia công cung cấp nguyên liệu phụ. Về giá điều trị: người ta chia điều trị thành 2 hình thức: Hợp đồng thanh toán thực tế và thanh toán thực tế: bên nhận gia công thanh toán cho bên gia công tất cả các chi phí thực tế của mình cộng với phí gia công. Hợp đồng nhỏ gọn: Giá mục tiêu được xác định cho từng sản phẩm, bao gồm chi phí tiêu chuẩn và thù lao tiêu chuẩn. Bất kể chi phí thực tế của bên gia công là bao nhiêu, cả hai bên luôn thanh toán cho nhau theo tiêu chuẩn này. Xét về số lượng bên tham gia: Gia công phần mềm được chia thành: Xử lý hai bên: trong đó một bên ra lệnh xử lý và bên kia nhận xử lý. Gia công nhiều bên, còn gọi là gia công chuyển tiếp: Trong đó bên nhận gia công là một số doanh nghiệp mà sản phẩm gia công của đơn vị trước là đối tượng gia công của đơn vị sau, và bên đặt gia công có thể chỉ có một và cũng có thể nhiều hơn một (nói cách khác, sản phẩm gia công của hợp đồng gia công công đoạn trước được giao cho thương nhân theo chỉ định của bên đặt gia công cho hợp đồng gia công công đoạn tiếp theo). Mối quan hệ giữ bên đặt gia công và bên nhận gia công được xác định trong hợp đồng gia công. Hợp đồng gia công phải được lập thành văn bản hoặc bằng hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương và gồm các điều khoản sau: – Tên, địa chỉ của các bên ký hợp đồng và bên gia công – Tên, số lượng sản phẩm gia công – Giá gia công – Thời hạn thanh toán và phương thức thanh toán; – Danh mục, số lượng, trị giá nguyên liệu, phụ liệu, vật tư nhập khẩu và nguyên liệu, phụ liệu, vật tư sản xuất trong nước (nếu có) để gia công; định mức sử dụng nguyên liệu, phụ liệu, vật tư; định mức vật tư tiêu hao và tỷ lệ hao hụt nguyên liệu trong gia công; – Danh mục và trị giá máy móc thiết bị cho thuê, cho mượn hoặc tặng cho để phục vụ gia công (nếu có); – Biện pháp xử lý phế liệu, phế thải và nguyên tắc xử lý máy móc, thiết bị thuê mượn, nguyên liệu, phụ liệu vật tư dư thừa sau khi kết thúc hợp đồng gia công – Địa điểm và thời gian giao hàng; – Nhãn hiệu hàng hoá và tên gọi xuất xứ hàng hoá; – Thời hạn hiệu lực của hợp đồng. Gia công quốc tế ngày nay khá phổ biến trong buôn bán ngoại thương của nhiều nước. Đối với bên đặt gia công, phương thức này giúp họ lợi dụng được giá rẻ về nguyên liệu phụ và nhân công của nước nhận gia công. Đối với bên thầu phụ, phương thức này giúp họ giải quyết việc làm cho lao động trong nước hoặc tiếp nhận thiết bị, công nghệ mới tại nước họ, nhằm xây dựng nền công nghiệp quốc gia. Nhiều nước đang phát triển đã sử dụng phương thức gia công quốc tế để có một nền công nghiệp hiện đại, như Hàn Quốc, Thái Lan, Singapore... Theo quy định của pháp luật Việt Nam, gia công hàng hóa với thương nhân nước ngoài là việc thương nhân Việt Nam nhận gia công hàng hóa tại Việt Nam cho thương nhân nước ngoài hoặc đặt gia công hàng hóa ở nước ngoài. Theo đó, thương nhân, kể cả thương nhân có vốn đầu tư nước ngoài, được phép gia công hàng hóa cho thương nhân nước ngoài, trừ hàng hóa thuộc Danh mục cấm xuất khẩu, tạm ngừng xuất khẩu, hàng hóa thuộc Danh mục cấm xuất khẩu, tạm ngừng xuất khẩu. xuất khẩu. . nhập khẩu, tạm ngừng nhập khẩu. Đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu theo giấy phép, thương nhân chỉ được ký kết hợp đồng sau khi được Bộ Công Thương cấp giấy phép.
2.4. Hoạt động tái xuất
2.4.1 Khái niệm
. Hoạt động tái xuất/hoạt động tái xuất Tái xuất khẩu là việc xuất khẩu hàng hóa đã được nhập khẩu trước đó chưa qua chế biến tại nước tái xuất khẩu. Tái xuất khẩu là phương thức giao dịch kinh doanh mà người tái xuất khẩu không phục vụ tiêu dùng trong nước mà chỉ tạm nhập rồi tái xuất kiếm lời. Tạm nhập tái xuất là một trong những hình thức hoạt động xuất nhập khẩu được sử dụng phổ biến trong quan hệ thương mại quốc tế và chịu sự điều chỉnh của pháp luật quốc tế, tập quán thương mại quốc tế và pháp luật của nước có liên quan. Luật Thương mại Việt Nam 2005 quy định: Tạm nhập tái xuất hàng hóa là hàng hóa được nhập khẩu từ nước ngoài hoặc từ các đặc khu trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật Việt Nam, thực hiện làm thủ tục nhập khẩu tại Việt Nam và làm thủ tục xuất khẩu cùng loại hàng hóa đó ra khỏi Việt Nam. Tạm xuất tái nhập hàng hóa là việc hàng hóa được đưa ra nước ngoài hoặc đưa vào khu vực đặc biệt trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật, hoàn thành thủ tục xuất khẩu. Việt Nam và làm thủ tục nhập khẩu lại hàng hóa đó về Việt Nam. Cơ sở pháp lý của loại hình tạm nhập tái xuất là hai hợp đồng riêng biệt: hợp đồng mua hàng (do công ty Việt Nam ký với công ty nước xuất khẩu) và hợp đồng mua bán (do công ty Việt Nam ký với nước nhập khẩu). Hai hợp đồng này về cơ bản không khác gì hợp đồng xuất nhập khẩu thông thường nhưng chúng có mối quan hệ mật thiết với nhau. Chúng thường tương thích với nhau về loại hàng hóa, bao bì, nhãn hiệu, đôi khi cả về ngày giao hàng và chứng từ hàng hóa. Hợp đồng mua bán có thể được ký trước hoặc sau hợp đồng mua bán tùy theo điều kiện cụ thể do công ty quyết định. Phương pháp này khác với phương pháp đối lưu ở chỗ không nhìn vào nhu cầu tiêu dùng nội địa. Tham gia vào phương thức giao dịch tái xuất luôn có 3 nước: nước xuất khẩu, nước nhập khẩu và nước tái xuất. Do đó, phương pháp này còn được gọi là phương pháp giao dịch ba chiều hoặc tam giác.
2.4.2. Các loại hàng tái xuất Kinh doanh tái xuất bao gồm kinh doanh tạm nhập tái xuất và kinh doanh chuyển khẩu. Tạm nhập tái xuất: Theo Điều 29 Luật Thương mại: Tạm nhập tái xuất hàng hóa là hàng hóa được nhập khẩu từ nước ngoài hoặc từ các đặc khu trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật hiện hành tại Việt Nam , làm thủ tục nhập khẩu tại Việt Nam và làm thủ tục xuất khẩu cùng loại hàng hóa đó ra khỏi Việt Nam. Hoạt động tạm nhập, tái xuất được thực hiện trên cơ sở hai hợp đồng riêng biệt: Hợp đồng mua hàng của thương nhân Việt Nam với thương nhân nước xuất khẩu và hợp đồng bán hàng của thương nhân Việt Nam với thương nhân nước nhập khẩu. Hàng hóa nhập khẩu tái xuất được gửi kho ngoại quan sau đó xuất khẩu ra nước ngoài không qua gia công. Vận chuyển hàng hóa: Chuyển khẩu qua biên giới là hình thức kinh doanh trong đó hàng hóa từ nước xuất khẩu được xuất khẩu trực tiếp sang nước nhập khẩu. Nước tái xuất trả tiền cho nước xuất khẩu và thu tiền nước nhập khẩu. Theo quy định của pháp luật thương mại, chuyển khẩu là việc mua hàng hóa từ một quốc gia, vùng lãnh thổ để bán sang một quốc gia, vùng lãnh thổ ngoài lãnh thổ Việt Nam, không làm thủ tục nhập khẩu tại Việt Nam và không làm thủ tục xuất khẩu ra ngoài Việt Nam. Chuyển tải hàng hóa được thực hiện dưới các hình thức sau: - Hàng hóa được vận chuyển thẳng từ nước xuất khẩu đến nước nhập khẩu không qua cửa khẩu Việt Nam. - Hàng hóa chuyển khẩu từ nước xuất khẩu sang nước nhập khẩu đã qua cửa khẩu Việt Nam nhưng chưa làm thủ tục nhập khẩu của Việt Nam và chưa làm thủ tục xuất khẩu của Việt Nam. - Hàng hóa được vận chuyển từ nước xuất khẩu đến nước nhập khẩu có qua cửa khẩu Việt Nam và đưa vào kho ngoại quan, khu vực trung chuyển hàng hóa tại cảng biển Việt Nam, không làm thủ tục nhập khẩu tại Việt Nam và không làm thủ tục hải quan để tiếp tục xuất khẩu ra nước ngoài . Việc trung chuyển hàng hóa được thực hiện trên cơ sở hai hợp đồng riêng biệt: Hợp đồng mua hàng do thương nhân Việt Nam ký với thương nhân nước xuất khẩu và hợp đồng mua bán hàng hóa do thương nhân Việt Nam ký với thương nhân nước nhập khẩu. Hợp đồng mua bán có thể ký trước hoặc sau hợp đồng mua bán. Tuy nhiên, cần phân biệt giữa loại hình tạm nhập - tái xuất với quá cảnh. Quá cảnh hàng hóa là việc vận chuyển hàng hóa của tổ chức, cá nhân nước ngoài qua lãnh thổ Việt Nam, bao gồm chuyển tải, chuyển tải, lưu kho, chia tách, chuyển đổi phương thức vận tải hoặc bất kỳ công việc nào khác được thực hiện trong quá trình quá cảnh. Hiện nay, Chính phủ Việt Nam đã ký kết các Hiệp định quá cảnh hàng hóa với Chính phủ Hoàng gia Campuchia, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Theo đó, nguyên tắc, chế độ hàng hóa được phép quá cảnh lãnh thổ Việt Nam được quy định. Thật vậy, thương mại tái xuất hay quá cảnh đã hình thành và phát triển từ lâu trên thế giới. Các phương thức thương mại này làm phong phú thêm quan hệ thương mại giữa các quốc gia trên thế giới, đặc biệt được áp dụng rộng rãi đối với các quốc gia không có vị trí thuận lợi về cảng biển, đường bộ và các yếu tố khác.
2.5. thương mại điện tử
Thương mại điện tử (Thương mại điện tử) là một phương thức thương mại được thực hiện bằng các phương tiện điện tử. Phương tiện điện tử có nghĩa là phương tiện vận hành bằng công nghệ điện, điện tử, kỹ thuật số, từ tính, truyền dẫn không dây, quang học, điện từ hoặc công nghệ tương tự. Nói cách khác, thương mại điện tử là một phương thức thương mại trong đó việc trao đổi thông tin thương mại diễn ra bằng phương tiện kỹ thuật điện tử mà không cần in ra giấy ở bất kỳ giai đoạn nào của giao dịch (còn gọi là thương mại không cần giấy tờ). Các phương tiện kỹ thuật điện tử như điện thoại, điện báo, telex, fax, truyền hình, thiết bị kỹ thuật thanh toán điện tử, hệ thống mạng, mạng nội bộ, Internet và web... Theo nghĩa chung hiện nay, thương mại điện tử là việc sử dụng các phương tiện điện tử, mạng Internet để tiến hành các hoạt động thương mại điện tử. giao dịch kinh doanh. các hoạt động. Thương mại điện tử có thể được xem xét dưới góc độ truyền thông, kinh doanh, dịch vụ, Internet... Dưới góc độ truyền thông, thương mại điện tử là tập hợp các hoạt động trao đổi thông tin, sản phẩm, dịch vụ, v.v. thanh toán… bằng các phương tiện điện tử như máy tính, đường dây điện thoại, internet và các phương tiện khác. Ở góc độ kinh doanh, thương mại điện tử là việc ứng dụng các phương tiện điện tử và công nghệ thông tin để tự động hóa các quy trình và hoạt động kinh doanh. Nhìn từ góc độ dịch vụ, thương mại điện tử là việc ứng dụng các phương tiện điện tử và công nghệ thông tin để tự động hóa các hoạt động dịch vụ. Thương mại điện tử còn được hiểu là tất cả các hoạt động mua bán sản phẩm, dịch vụ và thông tin qua Internet và các mạng khác. Thương mại điện tử mang lại nhiều lợi ích như giúp doanh nghiệp nắm bắt được thông tin thị trường và đối tác phong phú, giúp giảm chi phí sản xuất, giảm chi phí bán hàng và tiếp thị. Thương mại điện tử qua Internet giúp người tiêu dùng và doanh nghiệp giảm đáng kể thời gian và chi phí giao dịch, dễ dàng xây dựng và củng cố mối quan hệ giữa những người tham gia vào quá trình kinh doanh. Thương mại điện tử giúp tiến hành các hoạt động kinh doanh rất nhanh, không tốn kém và rất linh hoạt. Nhưng thương mại điện tử chỉ có thể thực hiện được nếu cơ sở vật chất kỹ thuật của nó (mạng máy tính, mạng Internet,,,) được trang bị đầy đủ, đặc biệt trong điều kiện hội nhập kinh doanh quốc tế, Việt Nam đã ban hành Luật Giao dịch điện tử và Quy định về sử dụng chữ ký số. (Quyết định số 25/2006/QĐ-BTM ngày 25 tháng 7 năm 2006 của Bộ trưởng Bộ Thương mại quy định về sử dụng chữ ký số). Giao dịch điện tử phải được thực hiện dựa trên các nguyên tắc cơ bản sau: Các bên phải tự nguyện lựa chọn sử dụng phương tiện điện tử để thực hiện giao dịch và thoả thuận lựa chọn công nghệ để thực hiện giao dịch điện tử. Không một loại công nghệ nào được coi là duy nhất trong các giao dịch điện tử. Giao dịch điện tử phải bảo đảm bình đẳng, bảo mật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân, lợi ích của Nhà nước và lợi ích công cộng. Các hành vi bị nghiêm cấm trong giao dịch điện tử: Rào cản lựa chọn sử dụng giao dịch điện tử. Cản trở hoặc ngăn cản trái pháp luật việc truyền, gửi, nhận thông điệp dữ liệu. Thay đổi trái phép, xóa, phá hủy, giả mạo, sao chép, tiết lộ, hiển thị, di chuyển một phần hoặc toàn bộ thông điệp dữ liệu. Tạo ra hoặc phát tán các chương trình phần mềm can thiệp, sửa đổi, phá hoại hệ điều hành hoặc có hành vi khác phá hoại hạ tầng công nghệ của giao dịch điện tử. Tạo thông điệp dữ liệu để thực hiện hành vi vi phạm pháp luật. Gian lận, giả mạo, chiếm đoạt hoặc sử dụng trái phép chữ ký điện tử của người khác. Hợp đồng điện tử là hợp đồng được soạn thảo dưới dạng thông điệp dữ liệu và được Nhà nước công nhận về giá trị pháp lý. Thông điệp dữ liệu là thông tin được tạo, gửi, nhận và lưu trữ bằng phương tiện điện tử. Thông điệp dữ liệu được thể hiện dưới dạng trao đổi dữ liệu điện tử, văn bản điện tử, thư điện tử, điện tín, điện báo, fax và các hình thức tương tự khác. Hợp đồng điện tử là việc sử dụng thông điệp dữ liệu để hoàn thành một phần hoặc toàn bộ giao dịch như một phần của quy trình hợp đồng. Khi giao kết hợp đồng, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác, việc đề nghị giao kết hợp đồng, chấp nhận giao kết hợp đồng có thể được thực hiện bằng thông điệp dữ liệu. Theo quy định của Luật giao dịch điện tử, hợp đồng điện tử được công nhận là có giá trị pháp lý. Khi giao kết và thực hiện hợp đồng điện tử, thông báo dưới dạng tin nhắn máy tính có giá trị pháp lý như thông báo bằng phương tiện truyền thống. Các bước của một giao dịch mua bán thương mại điện tử Một giao dịch mua bán trực tuyến bao gồm 6 bước sau: (1) Khách hàng, từ một máy tính ở đâu đó, điền thông tin thanh toán và chi tiết đơn hàng của Trang web bán hàng (còn gọi là Trang web thương mại điện tử). Công ty nhận được yêu cầu mua hàng hóa hoặc dịch vụ từ khách hàng và phản hồi xác nhận tóm tắt các thông tin cần thiết như mặt hàng đã chọn, địa chỉ giao hàng và số đơn đặt hàng... (2) Khách hàng xác thực thông tin khai báo và nhấn nút “đặt hàng” trên màn hình từ bàn phím hoặc chuột máy tính, để gửi lại thông tin cho công ty. (3) Doanh nghiệp nhận và lưu trữ thông tin đơn hàng và truyền thông tin thanh toán (số thẻ tín dụng, ngày đến hạn, ghi chú thẻ,…) được mã hóa về máy chủ (máy chủ - thiết bị xử lý dữ liệu) từ nhà cung cấp dịch vụ xử lý thẻ qua internet. Với quy trình mã hóa, thông tin thanh toán của khách hàng được bảo mật để tránh gian lận trong giao dịch (ví dụ: công ty sẽ không biết thông tin thẻ tín dụng của khách hàng). (4) Khi Trung tâm xử lý thẻ tín dụng nhận được thông tin thanh toán sẽ giải mã thông tin và xử lý giao dịch sau tường lửa (Fire wall) và tách biệt với Internet, nhằm mục đích bảo mật tuyệt đối cho giao dịch của doanh nghiệp, định dạng lại giao dịch. và truyền thông tin thanh toán đến ngân hàng của công ty qua một đường dây thuê bao riêng (một đường dữ liệu riêng). (5) Ngân hàng của công ty gửi tin nhắn điện tử yêu cầu thanh toán tới ngân hàng hoặc công ty thẻ tín dụng của khách hàng. Tổ chức tài chính này sẽ trả lời chấp thuận hoặc từ chối cho trung tâm xử lý thẻ tín dụng trên Internet. (6) Trung tâm xử lý thẻ tín dụng Internet sẽ tiếp tục chuyển các nhận xét trên cho Công ty và theo đó, Công ty sẽ thông báo rõ ràng cho Khách hàng về việc đơn hàng có được thực hiện hay không. . Thời gian thực hiện hoàn chỉnh giao dịch mạng từ bước 1 đến bước 6 được xử lý trong khoảng 15-20 giây.
2.6. đấu giá quốc tế
Đấu giá hàng hóa là hoạt động kinh doanh, theo đó người bán hàng tự mình hoặc thuê người điều hành cuộc đấu giá thực hiện việc bán hàng hóa công khai để chọn người mua hàng hóa trả giá cao nhất. Đấu giá quốc tế là cuộc đấu giá có sự tham gia của nhiều người tham gia có quốc tịch khác nhau hoặc thường trú ở các quốc gia khác nhau. Các chủ thể tham gia đấu giá chung bao gồm: người tổ chức đấu giá, người bán, người tham gia đấu giá và người điều hành cuộc đấu giá. Người tổ chức đấu giá là thương nhân đã đăng ký kinh doanh dịch vụ đấu giá hoặc là người bán hàng của chính mình trong trường hợp người bán hàng tự tổ chức đấu giá. Người bán là chủ sở hữu hàng hóa, người được chủ hàng hóa ủy quyền bán hoặc người có quyền bán hàng hóa của người khác theo quy định của pháp luật. Người tham gia đấu giá hoa là tổ chức, cá nhân đăng ký tham gia đấu giá. Người điều hành đấu giá có nghĩa là Người tổ chức đấu giá hoặc người được Người tổ chức đấu giá ủy quyền để điều hành Phiên đấu giá. Trong thương mại quốc tế, những mặt hàng được đấu giá thường là những mặt hàng khó tiêu chuẩn hóa như lông thú, trà, gia vị, v.v. Hãy trung thực và đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên liên quan. Việc bán đấu giá hàng hoá được thực hiện theo một trong hai phương thức là phương thức bán đấu giá hoặc phương thức giảm giá. Phương thức đấu giá là phương thức đấu giá trong đó người trả giá cao nhất so với giá khởi điểm là người có quyền mua vật phẩm đó. Phương thức mua là phương thức đấu giá, trong đó người đầu tiên chấp nhận ngay giá khởi điểm hoặc giá dưới giá khởi điểm là người có quyền mua hàng. Đấu giá có thể được tiến hành qua Internet. Bản chất của đấu giá trực tuyến và đấu giá truyền thống đều giống nhau là “tạo môi trường cạnh tranh để cuối cùng chọn ra mức giá tối ưu”. Đấu giá quốc tế là phương thức giao dịch đặc biệt trong đó có một người bán, nhiều người mua. Người tham gia đấu giá được tự do cạnh tranh theo các điều kiện do người bán quy định trước. Địa điểm và thời gian đấu giá thường được xác định trước. Hàng hoá, mẫu hàng hoá, chứng từ hàng hoá và các thông tin cần thiết khác về hàng hoá phải được trưng bày tại địa điểm đã quy định kể từ thời điểm ký gửi. Phiên đấu giá diễn ra theo trình tự sau: Người điều hành cuộc đấu giá điểm danh những người đã đăng ký tham gia đấu giá hàng hóa; Người điều hành cuộc đấu giá giới thiệu từng vật phẩm đấu giá, nhắc lại giá khởi điểm, trả lời câu hỏi của người tham gia đấu giá và yêu cầu người tham gia đấu giá trả giá; Đối với phương thức trả giá cao hơn, người điều hành cuộc đấu giá phải lặp lại rõ ràng, chính xác giá trả sau cùng cao hơn giá trả trước ít nhất ba lần, cách nhau ít nhất ba mươi giây. Người điều hành cuộc đấu giá chỉ được công bố người mua được hàng hoá đấu giá nếu sau ba lần nhắc lại giá đã trả mà không có người nào trả giá cao hơn; Đối với phương thức đặt cọc, người điều hành đấu giá phải lặp lại rõ ràng, chính xác từng lần trả giá thấp hơn giá khởi điểm ít nhất ba lần, mỗi lần cách nhau ít nhất ba mươi giây. Người điều hành đấu giá phải công bố ngay người đầu tiên chấp nhận mức giá khởi điểm hoặc mức giá hạ thấp hơn mức giá khởi điểm là người có quyền mua hàng hoá đấu giá; Trường hợp có nhiều người đồng thời trả mức giá cuối cùng đối với phương thức trả giá lên hoặc mức giá đầu tiên đối với phương thức đặt giá xuống, người điều hành đấu giá phải tổ chức rút thăm giữa những người đó và công bố người rút trúng thăm được mua là người mua hàng hoá bán đấu giá; Người điều hành đấu giá phải lập văn bản bán đấu giá hàng hoá ngay tại cuộc đấu giá, kể cả trong trường hợp đấu giá không thành. Văn bản bán đấu giá phải ghi rõ kết quả đấu giá, có chữ ký của người điều hành đấu giá, người mua hàng và hai người chứng kiến trong số những người tham gia đấu giá; đối với hàng hoá bán đấu giá phải có công chứng nhà nước theo quy định của pháp luật thì văn bản bán đấu giá cũng phải được công chứng. Cuộc đấu giá được coi là không thành trong trường hợp không có người tham gia đấu giá, trả giá hoặc giá cao nhất đã trả thấp hơn mức giá khởi điểm đối với phương thức trả giá lên. Trường hợp đấu giá không thành, trong văn bản bán đấu giá hàng hoá phải nêu rõ kết quả là đấu giá không thành và phải có đầy đủ các nội dung về tên, địa chỉ của người tổ chức đấu giá, người điều hành đấu giá, người bán hàng, thời gian và địa điểm đấu giá, hàng hoá bán đấu giá cũng như tên và địa chỉ của hai người chứng kiến. Trường hợp đấu giá theo phương thức trả giá lên, nếu người trả giá cao nhất rút ngay lại giá đã trả thì cuộc đấu giá vẫn được tiếp tục từ giá của người trả giá liền kề trước đó. Trường hợp trả giá theo phương thức xét xử, nếu người trả giá đầu tiên rút ngay giá đã trả thì cuộc đấu giá được tiếp tục với mức giá đã đặt trước đó. Người rút lại giá đã trả hoặc rút lại chấp nhận giá không được tiếp tục tham gia đấu giá. Trường hợp giá bán của hàng hóa thấp hơn giá của người rút lại chấp nhận trả giá đối với phương thức đấu giá hoặc giá mà người rút lại chấp nhận đối với phương thức đấu giá thì người đó phải trả cho người bán số tiền chênh lệch nếu hàng bán cao giá hơn thì người rút lại không được hưởng phần chênh lệch. Trong trường hợp đấu giá không thành, người rút lại giá đã trả sẽ phải chịu chi phí đấu giá và không được trả lại tiền đặt trước. Sau khi tuyên bố kết thúc cuộc đấu giá, người mua phải chịu trách nhiệm về việc này. Nếu sau đó người mua từ chối mua hàng thì phải được sự đồng ý của người bán nhưng phải chịu mọi chi phí liên quan đến việc tổ chức bán đấu giá. Trong trường hợp người mua được hàng hóa đấu giá đã nộp tiền đặt trước nhưng từ chối mua thì khoản tiền đặt trước đó không được hoàn trả. Khoản trả trước thuộc về người bán. Có hai nhà đấu giá lớn nhất thế giới: Sotheby's và Christie's. Đặc điểm của hàng hóa trên thị trường đấu giá là những mặt hàng có giá trị kinh tế cao, mang tính đặc thù như rượu quý hiếm, tác phẩm nghệ thuật, đồ cổ… Thị trường đấu giá chỉ có một người bán, nhiều Người mua phải có lợi thế của người bán, người bán giá là giá cao nhất
. 2.7. Đấu thầu quốc tế
Đấu thầu hàng hóa, dịch vụ là hoạt động thương mại, theo đó bên mua thông qua đấu thầu để lựa chọn trong số các thương nhân tham gia đấu thầu thương nhân đáp ứng tốt nhất các yêu cầu mà bên mua đặt ra để ký kết và thực hiện hợp đồng. Đấu thầu cạnh tranh quốc gia là quá trình lựa chọn nhà thầu đáp ứng yêu cầu của nhà thầu với sự tham gia của các nhà thầu trong nước. Đấu thầu cạnh tranh quốc tế là quá trình lựa chọn nhà thầu đáp ứng các yêu cầu của bên dự thầu với sự tham gia của các nhà thầu nước ngoài và trong nước. Đấu giá là phương thức giao dịch đặc biệt trong đó có một người mua, nhiều người bán; điều kiện do người mua quy định trước và được thực hiện tại địa điểm và thời gian xác định trước. Đấu thầu có thể có nhiều mục đích khác nhau, có thể là đấu thầu lựa chọn tư vấn, đấu thầu lựa chọn nhà cung cấp, nhà thầu xây lắp… Đấu giá có thể được thực hiện dưới hình thức đấu thầu rộng rãi hoặc đấu thầu hạn chế. Đấu thầu rộng rãi là hình thức đấu thầu mà bên mời thầu không hạn chế số lượng các bên dự thầu. Đấu thầu hạn chế là hình thức đấu thầu trong đó bên mời thầu chỉ mời một số nhà thầu nhất định tham gia đấu thầu. Bên mời thầu có trách nhiệm thông báo công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng trong trường hợp đấu thầu rộng rãi hoặc gửi thông báo mời đăng ký dự thầu cho các nhà thầu có đủ năng lực trong trường hợp đấu thầu rộng rãi, chào hàng hạn chế. Có hai phương thức đấu giá, đó là đấu giá một phong bì và đấu giá hai phong bì. Trong phương thức đấu thầu một túi hồ sơ, các nhà thầu nộp hồ sơ dự thầu bao gồm cả đề xuất về kỹ thuật và tài chính trong một túi hồ sơ theo yêu cầu của hồ sơ mời thầu và việc mở thầu chỉ được thực hiện một lần. Đối với phương thức đấu thầu hai túi hồ sơ, nhà thầu nộp hồ sơ dự thầu bao gồm đề xuất về kỹ thuật và đề xuất về tài chính trong các túi hồ sơ riêng biệt được nộp cùng một lúc và việc mở thầu được thực hiện hai lần. Các đề xuất kỹ thuật sẽ được mở trước. Bên mời thầu có quyền lựa chọn phương thức đấu thầu và phải thông báo trước cho các nhà thầu. Ngay sau khi có kết quả đấu thầu, bên mời thầu có trách nhiệm thông báo kết quả đấu thầu cho các bên mời thầu. Bên mời thầu phải hoàn thiện và ký kết hợp đồng với bên mời thầu trên cơ sở kết quả đấu thầu, các yêu cầu nêu trong hồ sơ mời thầu và nội dung ghi trong hồ sơ mời thầu. Các bên có thể thỏa thuận về việc bên trúng đấu giá phải nộp tiền đặt cọc, bảo lãnh hoặc được bảo lãnh để bảo lãnh thực hiện hợp đồng. Số tiền đặt cọc và tiền đặt cọc do nhà thầu quy định nhưng không vượt quá 10% giá trị hợp đồng. Người trúng đấu giá có quyền thu hồi tiền đặt cọc và tiền bảo đảm thực hiện hợp đồng trong thời gian thanh lý hợp đồng. Người trúng thầu không có quyền thu hồi tiền đặt cọc hoặc tiền đặt cọc để thực hiện hợp đồng nếu từ chối thực hiện hợp đồng sau khi hợp đồng đã được ký kết. Một cuộc đấu giá có thể thành công theo mục tiêu đề ra, cũng có thể phải trả giá lại hoặc hủy kết quả cuộc đấu giá. Huỷ đấu thầu được áp dụng trong trường hợp tất cả hồ sơ dự thầu về cơ bản không đáp ứng được các yêu cầu của hồ sơ mời thầu hoặc có bằng chứng cho thấy bên mời thầu thông đồng với nhà thầu hay tất cả các nhà thầu có sự thông đồng làm ảnh hưởng đến lợi ích của bên mời thầu… Việc đấu thầu lại được tổ chức khi có một trong các trường hợp sau đây: có sự vi phạm các quy định về đấu thầu hoặc các bên dự thầu đều không đạt yêu cầu đấu thầu.
2.8. Giao dịch tại Sở giao dịch hàng hóa
Sở giao dịch hàng hoá (commodity markets) là những thị trường giao dịch đặc biệt, diễn ra thường xuyên tại một địa điểm cố định, tại đó bằng hợp đồng mẫu của Sở, thông qua người môi giới của Sở, các thương nhân sẽ mua bán những lượng hàng hoá có giá trị lớn và thường là mua khống bán khống để thu chênh lệch giá. Sở giao dịch hàng hoá có các chức năng chủ yếu là: Cung cấp các điều kiện vật chất – kỹ thuật cần thiết để giao dịch mua bán hàng hoá; Điều hành các hoạt động giao dịch và niêm yết các mức giá cụ thể hình thành trên thị trường giao dịch tại từng thời điểm. Mua bán hàng hoá qua Sở giao dịch hàng hoá là hoạt động thương mại, theo đó các bên thoả thuận thực hiện việc mua bán một lượng nhất định của một loại hàng hoá nhất định qua Sở giao dịch hàng hoa theo những tiêu chuẩn của Sở giao dịch hàng hoá với giá được thoả thuận tại thời điểm giao kết hợp đồng và thời gian giao hàng được xác định tại một thời điểm trong tương lai. Đặc điểm của phương thức mua bán qua Sở giao dịch hàng hoá là thị trường, thời gian và thể lệ mua – bán đều được quy định sẵn. Hoạt động mua bán bao gồm chủ yếu là mua và bán khống để thu chênh lệch giá. Hàng hóa thường là nông sản, khoáng sản, có… khối lượng lớn, nhu cầu sử dụng cao và dễ tiêu chuẩn hóa Hợp đồng mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa bao gồm hợp đồng tương lai và hợp đồng quyền chọn. Hợp đồng kỳ hạn là sự thỏa thuận theo đó bên cam kết giao hàng và bên mua cam kết nhận hàng vào một ngày trong tương lai theo quy định của hợp đồng. Hợp đồng quyền chọn (bao gồm quyền chọn mua hoặc quyền chọn bán) là một thỏa thuận, theo đó người mua quyền chọn có quyền mua hoặc bán một loại hàng hóa xác định với mức giá đã xác định trước và trả một khoản tiền xác định cho ý định mua quyền này. Người mua quyền có tùy chọn tiếp tục hoặc không tiếp tục mua hoặc bán những hàng hóa này. Các hành vi bị cấm khi mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa bao gồm: – Nhân viên của Sở giao dịch hàng hóa không được phép giao dịch, mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa. - Nghiêm cấm các bên tham gia hoạt động mua, bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa thực hiện các hành vi như: Gian lận, lừa dối về khối lượng hàng hóa trong hợp đồng giao dịch kỳ hạn, giao dịch quyền chọn. giá thực tế của hàng hóa trong hợp đồng tương lai hoặc hợp đồng quyền chọn; Thông tin sai sự thật về giao dịch, thị trường, giá cả hàng hóa mua bán qua Sở giao dịch hàng hóa; Sử dụng các biện pháp trái pháp luật gây rối loạn thị trường hàng hóa tại Sở giao dịch hàng hóa… Các trung tâm mua sắm chính trên thế giới: London, New York: Kim loại màu. Luân Đôn, New York, Rotterdam, Amsterdam: Quán cà phê. Bombay, Chicago, New York: Bông. Rotterdam, Milan, New York: Lúa mì. Sở giao dịch hàng hóa Việt Nam (VNX) là sở giao dịch hàng hóa đầu tiên được phép hoạt động theo tinh thần của luật thương mại. Khác với các sàn giao dịch hàng hóa trước đây được thành lập bởi các công ty chỉ đóng vai trò môi giới cho các sàn giao dịch hàng hóa nước ngoài, Sàn giao dịch hàng hóa VNX đóng vai trò là nhà tổ chức. Các nhà đầu tư quan tâm đến thị trường hàng hóa có thể tham gia giao dịch trên VNX. Cục có hai chức năng chính: Thứ nhất là chức năng kết nối các “nhà” của chuỗi giá trị sản phẩm, từ nhà sản xuất cà phê, đến nhà rang xay, nhà xuất khẩu và cuối cùng là người tiêu dùng tiêu thụ giữa họ ; Chức năng thứ hai của Cục là hoạt động như bảo hiểm giá. Khi giá được định bởi các thành viên của bộ phận hàng hóa, giá hàng hóa của các hộ nông dân nhỏ hoặc các nhà sản xuất lớn có cùng chất lượng sẽ có cùng một mức giá. Ngoài ra, đối với những người có nhu cầu về hàng hóa, có thể sử dụng các công cụ giao dịch tương lai để đảm bảo giá cả hàng hóa ổn định. Ví dụ, với giá thép, công ty xây dựng có thể mua thép với giá xác định trong tương lai, biến động giá cả thị trường sẽ không ảnh hưởng đến chi phí xây dựng của công ty. Điều này tránh tình trạng giá bán nhà bị điều chỉnh theo giá thép gây thiệt hại cho người mua nhà. Ngoài ra, trao đổi hàng hóa cũng mở ra nhiều cơ hội đầu tư mới. Khi các kênh đầu tư khác gặp khó khăn, nhà đầu tư có thể lựa chọn kênh đầu tư hàng hóa. Để quản lý, giám sát các hoạt động giao dịch, VNX dựa trên quy định pháp luật và thông lệ quốc tế đưa ra các quy chế dựa trên quyền lợi của các thành viên tham gia giao dịch. Ngoài vai trò là trung gian hoà giải khi phát sinh các tranh chấp liên quan đến hoạt động mua bán hàng hoá qua SGDHH, VNX còn giám sát các hoạt động giao nhận hàng hoá bao gồm việc phối hợp với các trung tâm kiểm định hàng hoa, hệ thống kho hậu cần để đảm bảo chất lượng hàng hoá giao dịch theo đúng tiêu chuẩn Việt Nam và quốc tế, và trung tâm thanh toán bù trừ đảm bảo khả năng thanh toán của các bên tham gia giao dịch.
2.9. Giao dịch tại hội chợ và triển lãm
Hội chợ, triển lãm thương mại là hoạt động xúc tiến thương mại và bán hàng được thực hiện tập trung trong một thời gian và tại một địa điểm nhất định để thương nhân trưng bày, giới thiệu hàng hoá, dịch vụ nhằm mục đích thúc đẩy, tìm kiếm cơ hội giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá, hợp đồng dịch vụ. Kinh doanh dịch vụ hội chợ, triển lãm thương mại là hoạt động thương mại, theo đó thương nhân kinh doanh dịch vụ này cung ứng dịch vụ tổ chức hoặc tham gia hội chợ, triển lãm thương mại cho thương nhân khác để nhận thù lao dịch vụ tổ chức hội chợ, triển lãm thương mại. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, thương nhân Việt, Nam, chi nhánh của thương nhân Việt Nam, chi nhánh của thương nhân nước ngoài tại Việt Nam có quyền trực tiếp tổ chức, tham gia hội chợ, triển lãm thương mại về hàng hoá, dịch vụ mà mình kinh doanh hoặc thuê thương nhân kinh doanh dịch vụ hội chợ, triển lãm thương mại thực hiện. Văn phòng đại diện của thương nhân không được phép tổ chức hoặc trực tiếp tham gia hội chợ, triển lãm thương mại. Trong trường hợp được thương nhân ủy quyền, văn phòng đại diện có quyền ký kết hợp đồng với thương nhân kinh doanh dịch vụ hội chợ, triển lãm để tổ chức và tham gia hội chợ, triển lãm cho thương nhân mà mình được thương nhân đó ủy quyền đại diện. Thương nhân nước ngoài có quyền trực tiếp hoặc thuê thương nhân Việt Nam kinh doanh dịch vụ tại hội chợ, triển lãm thương mại thay mặt mình tham gia hội chợ, triển lãm thương mại tại Việt Nam. Thương nhân nước ngoài muốn tổ chức hội chợ, triển lãm thương mại tại Việt Nam phải thuê thương nhân kinh doanh dịch vụ hội chợ, triển lãm thương mại Việt Nam thực hiện. Việc tổ chức hội chợ, triển lãm thương mại phải được phép của Bộ Công Thương. Hợp đồng dịch vụ tổ chức, tham gia hội chợ, triển lãm phải được giao kết bằng văn bản hoặc hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương. Doanh nghiệp tham gia hội chợ, triển lãm phải đăng ký với ban tổ chức của từng hội chợ, triển lãm. Hàng hóa, dịch vụ không được tham gia hội chợ, triển lãm thương mại tại Việt Nam bao gồm: hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh, chưa được phép lưu thông theo quy định của pháp luật; Hàng hóa, dịch vụ do thương nhân nước ngoài cung cấp mà pháp luật cấm nhập khẩu; Hàng giả, hàng vi phạm quyền sở hữu trí tuệ, trừ trường hợp trưng bày, giới thiệu để so sánh với hàng thật. Hàng hóa tạm nhập khẩu để tham gia hội chợ, triển lãm thương mại tại Việt Nam phải tái xuất khẩu trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày kết thúc hội chợ, triển lãm thương mại. Tất cả hàng hóa, dịch vụ được phép tham gia hội chợ, triển lãm thương mại ở nước ngoài, trừ hàng hóa, dịch vụ cấm xuất khẩu theo quy định của pháp luật. Hàng hóa, dịch vụ cấm xuất khẩu chỉ được tham gia hội chợ, triển lãm thương mại ở nước ngoài khi được sự chấp thuận của Thủ tướng Chính phủ. Thời hạn tạm xuất hàng hóa để tham gia hội chợ, triển lãm thương mại ở nước ngoài là 01 năm kể từ ngày hàng hóa được tạm xuất khẩu; Nếu quá thời hạn trên mà hàng hóa chưa tái nhập sẽ phải chịu thuế và các nghĩa vụ tài chính khác theo quy định của pháp luật Việt Nam. Thương nhân tổ chức, tham gia hội chợ, triển lãm thương mại ở nước ngoài được tạm xuất, tái nhập hàng hóa, chứng từ về hàng hóa, dịch vụ để trưng bày, giới thiệu tại hội chợ, triển lãm thương mại; được bán, tặng hàng hóa để trưng bày, giới thiệu tại hội chợ, triển lãm ở nước ngoài; phải nộp thuế và thực hiện các nghĩa vụ tài chính khác theo quy định của pháp luật Việt Nam. Ngoài ra, thương nhân phải tuân thủ các quy định liên quan đến việc tổ chức, tham gia hội chợ, triển lãm thương mại ở nước ngoài. Thương nhân kinh doanh dịch vụ hội chợ, triển lãm có quyền trưng bày chủ đề, thời gian tiến hành hội chợ, triển lãm tại nơi tổ chức hội chợ, triển lãm trước khi khai mạc hội chợ, triển lãm; đồng thời có quyền yêu cầu bên nhận dịch vụ cung cấp hàng hóa để tham gia hội chợ, triển lãm trong thời hạn đã thỏa thuận trong hợp đồng. Các tổ chức, cá nhân tham gia hội chợ, triển lãm thương mại phải thực hiện nghiêm túc các quyền và nghĩa vụ theo thoả thuận với thương nhân tổ chức hội chợ, triển lãm thương mại; được quyền bán, tặng hàng hoá, cung ứng dịch vụ được trưng bày, giới thiệu tại hội chợ, triển lãm thương mại theo quy định của pháp luật và được tạm nhập, tái xuất hàng hoá, tài liệu về hàng hoá, dịch vụ để trưng bày tại hội chợ, triển lãm thương mại.
2.10. Nhượng quyền thương mại
Điều 284, Luật Thương mại Việt Nam định nghĩa: Nhượng quyền thương mại là hoạt động thương mại, theo đó bên nhượng quyền cho phép và yêu cầu bên nhận quyền tự mình tiến hành việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ theo các điều kiện sau đây: Việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ được tiến hành theo cách thức tổ chức kinh doanh do bên nhượng quyền quy định và được gắn với nhãn hiệu hàng hóa, tên thương mại, bí quyết kinh doanh, khẩu hiện kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, quảng cáo của bên nhượng quyền; Bên nhượng quyền có quyền kiểm soát và trợ giúp cho bên nhận quyền trong việc điều hành công việc kinh doanh. Hàng hoá, dịch vụ được phép kinh doanh nhượng quyền thương mại là hàng hóa, dịch vụ không thuộc Danh mục hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh. Trường hợp hàng hóa, dịch vụ thuộc Danh mục hàng hóa, dịch vụ hạn chế kinh doanh, Danh mục hàng hóa, dịch vụ kinh doanh có điều kiện, doanh nghiệp chỉ được kinh doanh sau khi được cơ quan quản lý ngành cấp Giấy phép kinh doanh, giấy tờ có giá trị tương đương hoặc có đủ điều kiện kinh doanh.
Nội dung bài viết:
Bình luận