Trong nền kinh tế thị trường với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế, các quan hệ pháp luật đất đai trở nên đa dạng, phức tạp kéo theo các tranh chấp đất đai cũng rất đa dạng, phức tạp và gay gắt. Vì vậy, việc giải quyết tranh chấp đất đai phải đáp ứng những yêu cầu nhất định...

1. Khái niệm về giải quyết tranh chấp đất đai
Thực tế cho thấy, tranh chấp đất đai là vấn đề nhạy cảm, đụng chạm đến nhiều vấn đề của xã hội, nếu không giải quyết tốt sẽ gây phản ứng không chỉ của một cá nhân mà của nhiều người, rất có thể dẫn đến mâu thuẫn gay gắt, tác động tiêu cực. trên xã hội. Vì vậy, việc giải quyết tranh chấp đất đai phải dứt điểm, có tình, có đạo lý, có truyền thống,… là thách thức đặt ra hiện nay đối với các cơ quan có thẩm quyền góp phần giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội trong nước và mỗi địa phương. Như vậy, thông qua giải quyết tranh chấp đất đai, pháp luật đất đai có vai trò trong đời sống kinh tế, xã hội và Nhà nước điều chỉnh các quan hệ đất đai sao cho phù hợp với lợi ích của Nhà nước và xã hội. Đồng thời, qua đó giáo dục công dân ý thức tôn trọng pháp luật, không vi phạm pháp luật về đất đai. Vậy giải quyết tranh chấp đất đai là gì? Trong thực tiễn giải quyết tranh chấp đất đai có thể hiểu là việc sử dụng các phương pháp thích hợp trên cơ sở pháp luật nhằm giải quyết những bất đồng, mâu thuẫn giữa người với người, khôi phục quyền và lợi ích hợp pháp cho bên bị thiệt hại, đồng thời buộc người vi phạm phải chịu những hậu quả pháp lý nhất định do hành vi của mình gây ra, góp phần củng cố khung pháp lý trong quá trình quản lý và sử dụng đất đai. Nói cách khác, giải quyết tranh chấp đất đai là việc áp dụng đúng các quy định của pháp luật vào việc giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp của các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật đất đai nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật đất đai. quan hệ lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất.
Thuật ngữ “giải quyết tranh chấp đất đai” đã được đề cập trong nội dung của Luật Đất đai 87, Luật Đất đai 93, Luật Đất đai 203 và Luật Đất đai 2013. Tuy nhiên, nội hàm của thuật ngữ “giải quyết tranh chấp đất đai” chưa được hiểu rõ. Và cho đến luật đất đai 2013, thuật ngữ “giải quyết tranh chấp đất đai” vẫn chưa được giải thích rõ ràng. Về mặt lý luận, thuật ngữ “giải quyết tranh chấp đất đai” mới được giải thích cụ thể trong Từ điển thuật ngữ luật học (phần pháp luật đất đai, pháp luật lao động, tư pháp quốc tế) của Trường. Luật Hà Nội, xuất bản năm 1999, quy định như sau: “Giải quyết tranh chấp đất đai: giải quyết những bất đồng, mâu thuẫn của người dân, tổ chức, trên cơ sở đó khôi phục các quyền lợi chính đáng bị vi phạm; đồng thời truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với hành vi vi phạm pháp luật về đất đai”. Như vậy, giải quyết tranh chấp đất đai được hiểu là phương thức con người tìm ra giải pháp thích hợp để giải quyết những bất đồng, mâu thuẫn giữa những người liên quan đến quản lý, sử dụng đất đai. . Giải quyết tranh chấp đất đai là một nội dung quản lý nhà nước về đất đai, là hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhằm giải quyết các tranh chấp, bất đồng, mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, giữa nhân dân với nhân dân với tổ chức và giữa các tổ chức sử dụng đất để phục hồi đất đai. quyền bị xâm phạm đồng thời truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi vi phạm pháp luật về đất đai.
2. Đặc điểm của tranh chấp đất đai
Giải quyết tranh chấp đất đai có những đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, giải quyết tranh chấp đất đai là một nội dung quản lý đất đai của Nhà nước. Hoạt động này do các cơ quan nhà nước hữu quan tiến hành trên cơ sở các quy định của pháp luật, quan điểm, chủ trương của Đảng và thực tiễn sử dụng đất đai để tìm ra phương thức giải quyết bất đồng, tranh chấp phù hợp giữa các bên có mâu thuẫn. Thứ hai, do đất đai là vấn đề nhạy cảm, phức tạp và quan trọng về nhiều mặt, hơn nữa việc quản lý, sử dụng đất đai có nhiều biến động qua các giai đoạn lịch sử nên tranh chấp đất đai xảy ra rất phức tạp, có nhiều người tham gia. Hoạt động giải quyết tranh chấp đất đai huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, khuyến khích các tổ chức đoàn thể ở cơ sở và nhân dân tham gia giải quyết tranh chấp đất đai. Trong giải quyết tranh chấp đất đai, Nhà nước coi trọng và bảo vệ phương thức thương lượng, hòa giải nhằm giải quyết tranh chấp một cách hòa bình, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, bảo đảm khối đoàn kết nội bộ các dân tộc. Thứ hai, do đất đai là vấn đề nhạy cảm, phức tạp và quan trọng về nhiều mặt, hơn nữa việc quản lý, sử dụng đất đai có nhiều biến động qua các giai đoạn lịch sử nên tranh chấp đất đai xảy ra rất phức tạp, có nhiều người tham gia. Hoạt động giải quyết tranh chấp đất đai huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, khuyến khích các tổ chức đoàn thể ở cơ sở và nhân dân tham gia giải quyết tranh chấp đất đai. Trong giải quyết tranh chấp đất đai, Nhà nước coi trọng và bảo vệ phương thức thương lượng, hòa giải nhằm giải quyết tranh chấp một cách hòa bình, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, bảo đảm khối đoàn kết nội bộ các dân tộc.
Thứ ba, do đặc thù về đất đai thuộc sở hữu toàn dân nên Nhà nước không thừa nhận và không xem xét giải quyết các tranh chấp về thu hồi đất đã giao cho người khác trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước. Thứ tư, việc giải quyết tranh chấp đất đai không chỉ dựa vào quan điểm, đường lối của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước mà còn căn cứ vào tâm lý, thị hiếu, tập quán, v.v. trong quá trình quản lý, sử dụng đất đai của nhân dân các vùng, miền của đất nước,…
3. Nguyên tắc giải quyết tranh chấp đất đai
Trong nền kinh tế thị trường với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế, các quan hệ pháp luật về đất đai trở nên đa dạng và phức tạp, kéo theo đó là các tranh chấp đất đai cũng rất đa dạng, phức tạp và gay gắt. Vì vậy, việc giải quyết tranh chấp đất đai phải đáp ứng những yêu cầu nhất định mà thực tế đã đặt ra. Để đáp ứng các yêu cầu này, việc giải quyết tranh chấp đất đai phải tôn trọng các nguyên tắc sau:
3.1 Nguyên tắc đất đai thuộc sở hữu toàn dân do nhà nước thống nhất quản lý
Điều 53 Hiến pháp năm 2013 quy định rõ: “Đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác và tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước quản lý. thay mặt chủ sở hữu và được quản lý một cách thống nhất. Thể hiện Hiến pháp 2013, Khoản 5, Điều 26, Luật Đất đai 2013 quy định: “Nhà nước không công nhận yêu cầu khai hoang đối với đất đã được giao theo quy định của Nhà nước cho người khác sử dụng trong quá trình thực hiện. chính sách đất đai của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Điều này khẳng định tất cả đất đai trên lãnh thổ Việt Nam đều thuộc sở hữu toàn dân do nhà nước thống nhất quản lý. Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân chỉ là đối tượng được Nhà nước giao đất sử dụng, không có quyền sở hữu đối với đất đai. Do đó, chủ thể của mọi tranh chấp đất đai chỉ là quyền quản lý, sử dụng đất chứ không phải quyền sở hữu đối với đất đai. Như vậy, trong quá trình giải quyết tranh chấp đất đai phải tôn trọng và bảo vệ quyền sở hữu toàn dân đối với đất đai mà Nhà nước là đại diện chủ sở hữu; bảo vệ quyền đại diện chủ sở hữu đất đai của nhà nước; bảo vệ thành quả cách mạng của vùng đất mà nhân dân ta đã chinh phục.
3.2 Nguyên tắc bảo đảm quyền lợi của người sử dụng đất
nhất là lợi ích kinh tế, khuyến khích tự thương lượng, tự hòa giải giữa các dân tộc. Luật đất đai 2013 với việc ghi nhận năm quyền của người sử dụng đất (quyền chuyển đổi, quyền chuyển đổi, quyền cho thuê, thừa kế, thế chấp quyền sử dụng đất) đã khẳng định tư duy đổi mới trong quá trình quản lý các quan hệ xã hội về đất đai. Vì vậy, tôn trọng các quyền của người sử dụng đất và tạo điều kiện để họ phát huy tối đa các quyền này là một nguyên tắc quan trọng của pháp luật đất đai. Thực tế đã chứng minh, nếu không bảo đảm quyền lợi của người sử dụng đất thì việc sử dụng đất không thể mang lại hiệu quả kinh tế cao. Đây cũng là nguyên tắc cơ bản trong quá trình giải quyết tranh chấp đất đai. Tôn trọng quyền định đoạt của các chủ thể khi tham gia quan hệ pháp luật đất đai là tôn trọng quyền tự do thương lượng, thỏa thuận của họ trên cơ sở các quy định của pháp luật. Vì vậy, hòa giải trở thành phương thức, nguyên tắc giải quyết tranh chấp đất đai quan trọng và hiệu quả nhất.
3.3 Nguyên tắc giải quyết tranh chấp đất đai phải hướng tới ổn định tình hình chính trị, kinh tế - xã hội
gắn giải quyết tranh chấp đất đai với tổ chức lại sản xuất, tổ chức lại cơ cấu sản xuất theo thị trường. Do tranh chấp đất đai có ảnh hưởng tiêu cực đến mọi mặt đời sống chính trị, kinh tế, xã hội nên việc giải quyết tranh chấp đất đai cần hướng tới mục tiêu ổn định các quan hệ xã hội. Chú ý đảm bảo quy trình sản xuất của người dân, tránh gán dây chuyền sản xuất vào cơ cấu sản xuất chung. Đồng thời, cải tiến, tổ chức, sắp xếp lại cơ cấu sản xuất hàng hóa theo chủ trương của Đảng: “Ai giỏi việc gì thì làm”.
3.4 Nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa
Khi giải quyết tranh chấp đất đai phải công tâm, đúng nguyên tắc, trình tự, thủ tục, thẩm quyền do pháp luật quy định. Phát hiện và xử lý kịp thời các vi phạm pháp luật về đất đai, tránh để tranh chấp đất đai kéo dài, ảnh hưởng đến tâm lý và quyền lợi của nhân dân. Chân thành!
Nội dung bài viết:
Bình luận