Lịch sử thương mại quốc tế bao gồm các học thuyết sau:
1. Quan điểm trọng thương (đầu thế kỷ 15)
Trước thế kỷ XV, không phải các chủ thể kinh tế không hoạt động theo nguyên tắc kinh tế, mà họ chủ trương nhưng không thể hiện cụ thể. Vì không hiểu tại sao, không biết điều gì tốt, điều gì không tốt nên hàng ngàn năm trước, đời sống dân cư phát triển một cách tự phát. Vào thế kỷ 15, một số nhà kinh tế đã xây dựng lý thuyết kinh tế đầu tiên được gọi là Chủ nghĩa trọng thương. Chủ nghĩa trọng thương có quan điểm sau: Mối quan hệ giữa các tác nhân kinh tế là thắng-thua: nếu một người có thêm một cân vàng, người khác sẽ mất một cân vàng. Của cải chỉ có thể đạt được thông qua phân phối không công bằng, nghĩa là bóc lột người khác. Giai cấp thống trị bóc lột giai cấp bị trị. Mối quan hệ giữa hai nước là bảo hộ mậu dịch: thông qua kích thích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu vàng sẽ tràn vào nước mình. Quan điểm về sự giàu mạnh của một quốc gia: Quốc gia càng có nhiều vàng bạc, đất đai, dân số thì càng giàu có. Quan điểm này khuyến khích một quốc gia gây chiến với một quốc gia khác để cướp bóc vàng bạc, chiếm đoạt đất đai và con người. Chủ nghĩa trọng thương kéo theo cái kết cục tất yếu là nó không kích thích sản xuất mà chỉ chiếm đoạt. Khi dân số ngày càng tăng sản xuất không tăng tương ứng thì mức sống của người dân sẽ ngày càng sa sút.
2. Lý thuyết lợi thế tuyệt đối (Adam Smith)
Năm 1776, Adam Smith xuất bản cuốn sách "Sự giàu có quốc gia", đây là một tác phẩm kinh điển đưa ra rất nhiều lý thuyết về kinh tế. Trong cuốn sách này, Adam đã trình bày lý thuyết về lợi thế tuyệt đối. Adam phản đối chủ nghĩa thương mại và muốn tự do hóa thương mại. Thông qua bàn tay vô hình, các quốc gia sẽ sản xuất hàng hóa có lợi nhất cho họ với nguồn lực hạn chế. Khi đó các nước sẽ được hưởng lợi nhiều nhất. Adam lập luận rằng mỗi sản phẩm có một chi phí sản xuất khác nhau. Tại thời điểm này, Adam chỉ coi lao động là chi phí sản xuất duy nhất trong mô hình của mình.
Giờ công/Sản phẩm |
Nhật Bản |
Việt Nam |
Thép |
2 |
6 |
Vải |
5 |
3 |
Ví dụ như ở bảng trên ta thấy do chi phí sản xuất thép ở Việt Nam đắt hơn ở Nhật Bản nhưng chi phí sản xuất vải ở Việt Nam lại rẻ hơn ở Nhật Bản nên Nhật Bản chỉ nên tập trung vào sản xuất thép và Việt Nam chỉ nên tập trung vào sản xuất vải. Với cuốn sách của mình, Adam Smith đã bắt đầu thời kỳ kinh tế học cổ điển được các chính phủ tôn sùng từ thời Kynes. Quan điểm của Adam Smith như sau: Mối quan hệ giữa các tác nhân kinh tế là Thang Thắng: Bằng cách tối ưu hóa lợi ích cá nhân, các tác nhân kinh tế đã làm tăng phúc lợi xã hội (mặc dù điều này không có chủ đích). Quan hệ giữa hai nước là quan hệ cùng phát triển: mỗi nước có lợi thế riêng nên sản xuất hàng hóa với chi phí khác nhau. Bằng cách trao đổi hàng hóa giữa các quốc gia, mỗi quốc gia sẽ nhận được nhiều lợi ích nhất với chi phí thấp nhất. Tầm nhìn về sự giàu có của một quốc gia: đó là về những gì người dân của bạn ăn, mặc và hạnh phúc, chứ không phải vàng trong hầm. Adam Smith ủng hộ việc dỡ bỏ mọi rào cản thương mại (hạn ngạch, thuế, v.v.). Đó là một bước tiến lớn giữa chủ nghĩa bảo hộ và thương mại tự do. Với những chiếc giường tráng men, được bón phân, những bức tường được sưởi ấm, nho ngon có thể được trồng ở Scotland. Nhưng nếu sản xuất tại Scotland thì giá thành cao gấp 3 lần thay vì nhập khẩu từ Pháp. Vì vậy, "Liệu một đạo luật có thể hợp lý để cấm nhập khẩu rượu từ nước ngoài, chỉ để khuyến khích việc sản xuất rượu vang tím và Burgundy ở Scotland?"
3. Lý thuyết lợi thế so sánh (David Ricardo 1817)
Dựa trên lý thuyết của Adam Smith, Ricardo cho rằng các quốc gia cần xác định mặt hàng nào có lợi thế so sánh để tập trung sản xuất.
Giờ công/Sản phẩm |
Nhật Bản |
Việt Nam |
Thép |
2 |
12 |
Vải |
5 |
6 |
Trong trường hợp này, mặc dù sản xuất vải ở Nhật vẫn rẻ hơn ở Việt Nam, nhưng vì:
– Ở Nhật, 1 giờ làm được 2 đơn vị thép và 5 đơn vị vải nên 1 đơn vị thép = 2/5 đơn vị vải
– Ở Việt Nam 1 giờ làm được 12 đơn vị thép và 1 đơn vị vải nên 1 đơn vị thép = 2 đơn vị vải Vậy 1 đơn vị thép nếu quy ra vải thì ở Việt Nam sẽ lớn hơn ở Nhật. Nhật Bản nên sản xuất thép và mang sang Việt Nam để đổi lấy 2 đơn vị vải hơn là sản xuất vải. Ngược lại, Việt Nam nên đem 2 đơn vị vải sang Nhật đổi lấy 1 đơn vị thép, hơn là tự sản xuất thép. Trường hợp thương mại quốc tế chỉ xảy ra khi cả hai nước đều cảm thấy có lợi. Nếu 1 đơn vị thép bằng hoặc lớn hơn 2 đơn vị vải thì Nhật được lợi chứ Việt Nam thì không; và nếu 1 đơn vị thép etlt; Với 2/5 đơn vị vải, Việt Nam hưởng lợi nhưng Nhật Bản thì không. Do đó, hai nước sẽ giao dịch với điều kiện là 2/5 đơn vị vải etlt; 1 đơn vị thép etlt; 2 đơn vị vải. Mở rộng ra, giả sử có 3 nước tham gia vào quá trình sản xuất thì một nước nên chọn nước nào có chi phí sản xuất cao nhất để xuất khẩu. Các lý thuyết của Adam Smith và David Ricardo yêu cầu các giả định ban đầu như:
– Lao động không được tự do di chuyển giữa các quốc gia (vì nếu di chuyển sẽ không còn lợi ích gì nữa),
– Giao hàng giữa hai quốc gia bằng không,
– Chỉ có hai quốc gia và hai yếu tố trong mô hình
– Cạnh tranh hoàn hảo tồn tại trên thị trường (có nghĩa là có vô số người bán và vô số người mua)
– Công nghệ sản xuất của 2 nước là như nhau và không đổi (vì Adam chỉ coi lao động là chi phí sản xuất duy nhất, bỏ qua các biến số khác như công nghệ)
4. Mẫu Heckscher–Ohlin (mẫu HO)
Mô hình này do hai nhà kinh tế học Eli Heckscher (1919) và Bertil Ohlin người Thụy Điển đồng sáng tạo nên tên gọi của mô hình là sự ghép của hai tên gọi. Mô hình này giới thiệu hai yếu tố ảnh hưởng đến thương mại giữa các quốc gia: - Mức độ dồi dào và rẻ mạt của các yếu tố sản xuất – Mỗi mục yêu cầu một tỷ lệ các mục khác nhau. Một quốc gia phải xuất khẩu những hàng hóa mà quốc gia đó có nhiều yếu tố sản xuất và nhập khẩu những hàng hóa ngược lại. Trường hợp cụ thể là Việt Nam thừa lao động nhưng ít vốn nên sản xuất giày, vài giày, v.v. Nhật nhiều vốn nhưng ít lao động nên sản xuất thép và nhập khẩu vải. Trên thực tế, ngày nay, tất cả các quốc gia đều thực hiện chủ nghĩa trọng thương mới, nghĩa là khuyến khích xuất khẩu và bảo hộ thương mại nội khối thông qua các hàng rào thuế quan và kỹ thuật. Như vậy chúng ta sẽ thấy thuế xuất khẩu luôn thấp thậm chí bằng 0 nhưng thuế nhập khẩu lại cao ngất ngưởng, lên đến 100%. Tại Việt Nam, Chính phủ sẽ phải xác định các mặt hàng xuất/nhập khẩu tập trung trong từng thời điểm. Cụ thể, từ năm 2011 đến 2020, Việt Nam tập trung nhập khẩu các sản phẩm phục vụ sản xuất và nguyên liệu nên thực tế con số này là 90%; Còn lại tiêu dùng 10%. Đối với xuất khẩu, chúng ta tập trung xuất khẩu những mặt hàng cần nhiều lao động (da, quần áo,..) và tài nguyên theo hướng tăng hàm lượng chế biến.
Nội dung bài viết:
Bình luận