Tranh chấp thương mại là tranh chấp phát sinh từ việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng hợp đồng trong hoạt động thương mại. Tranh chấp thương mại về bản chất là tranh chấp hợp đồng. Đây là những tranh chấp về bất động sản phát sinh trong quá trình thực hiện hoạt động thương mại

1. Khái niệm tranh chấp thương mại
Tranh chấp thương mại là một hiện tượng phổ biến và thường xuyên xảy ra trong sự vận hành của nền kinh tế thị trường. Do tính chất diễn ra thường xuyên cũng như hệ lụy của nó đối với các bên tranh chấp nói riêng và đối với nền kinh tế nói chung, pháp luật Việt Nam đã sớm có những quan ngại nhất định về hoạt động này cũng như các phương thức giải quyết được chỉ ra thông qua các quy định cụ thể trong nhiều quy phạm pháp luật. văn bản. các tài liệu.
Khái niệm tranh chấp thương mại lần đầu tiên được làm rõ trong Luật Thương mại năm 1997 (Pháp lệnh thủ tục giải quyết tranh chấp kinh tế năm 1994 và Nghị định số 116/1994/NĐ-CP chủ yếu liệt kê các tranh chấp kinh tế). , tranh chấp giữa công ty với đối tác, tranh chấp giữa các đối tác với nhau hoặc tranh chấp liên quan đến việc mua bán cổ phần, trái phiếu...). Tại Điều 238 Bộ luật Thương mại, tranh chấp thương mại là tranh chấp phát sinh từ việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng hợp đồng trong hoạt động thương mại. Theo đó, nội dung của hoạt động thương mại theo quy định của Luật Thương mại 1997 rất hẹp so với khái niệm thương mại quốc tế. Hoạt động thương mại chỉ bao gồm ba nhóm: hoạt động mua bán hàng hoá; cung ứng dịch vụ thương mại và các hoạt động xúc tiến thương mại (Khoản 2 Điều 5 Luật Thương mại năm 2005). Tranh chấp thương mại và hoạt động thương mại theo quy định của Luật Thương mại năm 1997 đã loại bỏ rất nhiều tranh chấp mà xét về bản chất thì các tranh chấp đó có thể được coi là các tranh chấp thương mại, vì vậy đã dẫn đến các xung đột pháp luật trong hệ thống pháp luật, giữa pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế, trong đó có cả những Công ước quốc tế quan trọng mà Việt Nam đã là thành viên (Công ước New York 1958) gây không ít những trở ngại, rắc rối trong thực tiễn áp dụng và chính sách hội nhập.
Luật thương mại năm 2005 không trực tiếp đưa ra định nghĩa về tranh chấp thương mại song với sự hiện diện của khái niệm “hoạt động thương mại” theo nghĩa rộng đã tạo ra sự tương đồng trong quan niệm về thương mại và tranh chấp thương mại của pháp luật Việt Nam với chuẩn mực chung của pháp luật và thông lệ quốc tế. Theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Luật thương mại năm 2005 quy định Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác.
Như vậy, khâi niệm thương mại theo quy định của pháp luật Việt Nam đã được mở rộng, phù hợp với khái niệm thương mại trong Luật mẫu của Liên hợp quốc về trọng tài (UNCITRAL Model Law), Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ và WTO. Vấn đề này không chỉ có ý nghĩa bảo đảm sự bình đẳng giữa các chủ thể thương mại tham gia giải quyết tranh chấp mà còn trong việc công nhận và cho thi hành phán quyết của Trọng tài nước ngoài tại Việt Nam. Khái niệm “hoạt động thương mại” được quy định trong Lệnh Trọng tài Thương mại 2010 đã thể hiện bước đột phá trong việc tiếp cận các chuẩn mực chung của luật pháp và thông lệ quốc tế. Vì vậy, khái niệm hoạt động thương mại đã được thể chế hóa trong các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh lĩnh vực thương mại.
Luật Thương mại năm 2005 được Quốc hội thông qua ngày 14 tháng 6 năm 2005 đã đưa ra một khái niệm tương đối đơn giản về hoạt động thương mại. Tuy nhiên, khái niệm này cũng chứa đựng và mô tả nội hàm của hoạt động thương mại. Theo quy định tại khoản 1 mục 3 Luật Thương mại 2005 thì hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động khác nhằm mục đích sinh lợi khác.
Theo khái niệm này, khái niệm hoạt động thương mại được mở rộng cho tất cả các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi. Cách tiếp cận pháp luật thương mại này cho thấy khái niệm hoạt động thương mại đã thể hiện sự tương đồng với khái niệm doanh nghiệp trong Luật Doanh nghiệp các năm trước cũng như Luật Doanh nghiệp 2020. Doanh nghiệp là doanh nghiệp. quá trình từ đầu tư, sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận. (Khoản 21, mục 4 của Đạo luật công ty 2020). Bộ luật tố tụng dân sự 2015 cũng liệt kê các tranh chấp thương mại, kinh doanh thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án (Điều 30 Bộ luật tố tụng dân sự 2015). Bộ luật tố tụng dân sự 2015 không sử dụng thuật ngữ “tranh chấp thương mại” một cách độc lập mà sử dụng chung thuật ngữ “tranh chấp thương mại và thương mại”, nhưng nội dung tranh chấp liên quan đến thương mại do luật điều chỉnh. Quy định tại Điều 30 Bộ luật tố tụng dân sự thực chất là tranh chấp thương mại theo cách tiếp cận của Luật thương mại năm 2005. Điều này cho thấy, mặc dù có sự khác biệt về cách diễn đạt và ngôn ngữ sử dụng. Tuy nhiên, nhìn chung khái niệm hoạt động thương mại và tranh chấp thương mại được chuyển thành các quy định tương đối thống nhất trong các văn bản quy phạm pháp luật. .
Từ cách tiếp cận trên, người ta có thể hiểu:
Tranh chấp thương mại là những tranh chấp (bất đồng hoặc tranh chấp) về quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong hoạt động thương mại.
2. Đặc điểm của tranh chấp thương mại
- Thứ nhất, tranh chấp thương mại là những tranh chấp (bất đồng hay tranh chấp) về quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong một quan hệ cụ thể. Xung đột được hiểu là trạng thái mâu thuẫn và đối xứng về quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong xung đột. Quan hệ kinh doanh và những bất đồng giữa các bên trong quan hệ kinh doanh là điều kiện cần và đủ để tranh chấp phát sinh. Trong hoạt động kinh doanh, các bên hợp tác và cạnh tranh để đạt được mục tiêu đã đề ra. Vì vậy, không tránh khỏi những mâu thuẫn, bất đồng khi thực hiện quyền và nghĩa vụ của các bên. Quan hệ kinh doanh là quan hệ tài sản nên nội dung tranh chấp thường liên quan trực tiếp đến lợi ích kinh tế của các bên. Thông thường, những bất đồng về quyền và nghĩa vụ giữa các bên phát sinh trong các mối quan hệ cụ thể bao gồm:
Mua bán hàng hóa; cung cấp dịch vụ; phân bổ; đại diện, đại lý; tiền gửi; cho thuê, cho thuê, thuê mua; xây dựng; tư vấn kỹ thuật; vận tải hàng hóa, hành khách đường sắt, đường bộ và đường thủy nội địa; vận tải hàng hóa và hành khách bằng đường hàng không, đường biển; mua bán cổ phiếu, trái phiếu và các loại chứng khoán khác; đầu tư tài chính, ngân hàng; sự đảm bảo; thăm dò và khai thác.
Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân với tổ chức, tất cả đều vì lợi nhuận.
Tranh chấp giữa công ty với các thành viên hợp danh của công ty, giữa các thành viên hợp danh của công ty liên quan đến thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức theo Công ty.
Các tranh chấp kinh doanh, thương mại khác do pháp luật quy định. - Thứ hai, tranh chấp (bất đồng hoặc tranh chấp) về quyền và nghĩa vụ giữa các bên phải phát sinh từ hoạt động thương mại.
Cơ sở của tranh chấp thương mại là vi phạm hợp đồng hoặc vi phạm pháp luật. Trong nhiều trường hợp, tranh chấp thương mại phát sinh do các bên vi phạm hợp đồng, xâm phạm lợi ích của bên kia, nhưng cũng có thể có những vi phạm làm thiệt hại đến lợi ích của các bên nhưng không làm phát sinh kiện tụng. . Đối với tranh chấp thương mại phải phát sinh mâu thuẫn, bất đồng về quyền và nghĩa vụ giữa các bên phát sinh từ các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến hàng hóa, dịch vụ thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác. các hoạt động.
- Thứ ba, tranh chấp thương mại chủ yếu là tranh chấp giữa các thương nhân với nhau. Tranh chấp thương mại chủ yếu là tranh chấp giữa các thương nhân (cá nhân, pháp nhân) với nhau. Bên cạnh thương nhân là chủ thể chính của tranh chấp thương mại, trong một số trường hợp, các thể nhân, tổ chức khác (không phải là thương nhân) cũng có thể là chủ thể của tranh chấp thương mại trong quá trình giao dịch thương mại. chọn áp dụng pháp luật thương mại (khoản 3 mục 1 Luật thương mại 2005). Khoa học pháp lý gọi giao dịch này là giao dịch hỗn hợp (mixed behavior), về bản chất, hoạt động không có lợi của một bên trong giao dịch với thương nhân không phải là hoạt động kinh doanh thuần túy, mà bên không có lợi đã lựa chọn áp dụng luật thương mại, quan hệ này trở thành quan hệ thương mại. quan hệ pháp luật và tranh chấp phát sinh từ quan hệ pháp luật này phải được coi là tranh chấp thương mại. Nguyên tắc được pháp luật Pháp và nhiều nước áp dụng để giải quyết loại tranh chấp này là dựa trên việc bị đơn có phải là thương gia hay không. Nếu bị đơn là doanh nhân thì nguyên đơn (bên tham gia hành vi dân sự) có thể lựa chọn Tòa án thương mại hoặc Tòa án dân sự để giải quyết tranh chấp. Trong trường hợp nguyên đơn lựa chọn Toà án thương mại thì áp dụng các quy định chặt chẽ hơn của Bộ luật Thương mại để giải quyết tranh chấp. Ngược lại, nếu bị đơn không phải là thương nhân thì nguyên đơn (bên có hành vi thương mại) chỉ có quyền khởi kiện ra Tòa án dân sự và áp dụng pháp luật dân sự để giải quyết tranh chấp mà quy định của pháp luật thương mại không thể áp dụng được. áp dụng cho người không phải là thương nhân.
Tranh chấp thương mại là một trong những hệ quả của hoạt động thương mại. Vì vậy, nghiên cứu đặc điểm tranh chấp thương mại theo pháp luật Việt Nam sẽ là cơ sở để thấy rõ sự khác biệt với tranh chấp thương mại theo WTO ở các khía cạnh sau:
Tranh chấp thương mại theo WTO là tranh chấp thương mại quốc tế và liên chính phủ;
Các bên tranh chấp là thành viên của WTO, tổ chức quốc tế, thể nhân, pháp nhân... không được là các bên tranh chấp;
Đối tượng tranh chấp luôn liên quan đến việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo các hiệp định và thỏa thuận của WTO
Tranh chấp sẽ được giải quyết theo Cơ chế giải quyết tranh chấp (DSM) của WTO.
3. Phân loại tranh chấp thương mại
Căn cứ vào các căn cứ pháp lý khác nhau, tranh chấp thương mại được chia thành các loại tranh chấp sau:
- Tùy theo phạm vi lãnh thổ: Tranh chấp thương mại bao gồm tranh chấp thương mại quốc gia và tranh chấp thương mại quốc tế.
- Căn cứ vào số lượng các bên tranh chấp: tranh chấp thương mại bao gồm tranh chấp thương mại hai bên và tranh chấp thương mại nhiều bên.
- Tùy theo lĩnh vực tranh chấp: tranh chấp thương mại, bao gồm tranh chấp hợp đồng, tranh chấp sở hữu trí tuệ, tranh chấp đầu tư, tranh chấp tài chính, v.v.
- Căn cứ vào quá trình thực hiện: tranh chấp thương mại bao gồm tranh chấp trong quá trình đàm phán, soạn thảo, ký kết hợp đồng và tranh chấp trong quá trình thực hiện hợp đồng. - Theo thời điểm phát sinh tranh chấp: tranh chấp thương mại bao gồm: tranh chấp thương mại đang xảy ra và tranh chấp thương mại phát sinh.
4. Yêu cầu giải quyết tranh chấp thương mại
Tranh chấp thương mại đã trở thành một hiện tượng tất yếu và khách quan của nền kinh tế thị trường. Khi phát sinh các tranh chấp thương mại cần được giải quyết minh bạch và hiệu quả; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể, góp phần ngăn ngừa các hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động kinh doanh và bảo đảm trật tự pháp luật, kỷ cương xã hội. Việc giải quyết tranh chấp thương mại phải đáp ứng các yêu cầu chủ yếu sau đây:
- Nhanh chóng, thuận tiện, không hạn chế, cản trở hoạt động kinh doanh, thương mại. - Khôi phục và duy trì mối quan hệ hợp tác, tin cậy giữa các bên trong kinh doanh, thương mại.
- Giữ bí mật kinh doanh và uy tín của các bên.
- Kinh tế nhất (ít tốn kém nhất).
5. Thương mại điện tử là gì? Đặc điểm của thương mại điện tử là gì? Trả lời:
Hiểu một cách đơn giản, thương mại điện tử là giao dịch mua bán dựa trên nền tảng www (world wide web) thông qua các thiết bị điện tử có kết nối Internet.
Thương mại điện tử hiện nay được cụ thể hóa dưới dạng trao đổi thương mại điện tử, vì vậy nó có các đặc điểm sau:
- Thương mại điện tử cho phép chúng ta trao đổi hàng hóa, dịch vụ, sản phẩm, thông tin, tiền tệ thông qua mạng Internet hoặc các phương tiện điện tử khác có kết nối mạng.
- Thương mại điện tử có khả năng giảm chi phí và nâng cao hiệu quả quá trình sản xuất kinh doanh của hầu hết các doanh nghiệp, tổ chức hiện nay.
- Thương mại điện tử có thể áp dụng ngay vào các ngành dịch vụ khác như chính phủ điện tử, giáo dục điện tử, du lịch,...
- Khi công nghệ thông tin và khoa học kỹ thuật phát triển, khả năng liên kết và chia sẻ thông tin giữa công ty, nhà cung cấp, nhà phân phối và khách hàng giúp nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh và bán hàng.
- Có sự phân biệt tuyệt đối giữa thương mại điện tử và thương mại điện tử hay kinh doanh trực tuyến: Thương mại điện tử tập trung vào việc mua, bán và trao đổi hàng hóa, dịch vụ, thông tin thông qua mạng, phương tiện điện tử và Internet. Thương mại điện tử tập trung vào sự phối hợp của công ty, đối tác, khách hàng và tổ chức các hoạt động trong công ty. - Sự phát triển của thương mại điện tử gắn liền và tác động qua lại với sự phát triển của công nghệ thông tin và truyền thông. Nhờ sự phát triển của công nghệ thông tin và truyền thông, thương mại điện tử có khả năng ra đời và phát triển. Tuy nhiên, sự phát triển của thương mại điện tử cũng thúc đẩy và mở ra nhiều lĩnh vực công nghệ thông tin như phần cứng và phần mềm chuyên dụng cho các ứng dụng thương mại điện tử, thanh toán điện tử.
Nội dung bài viết:
Bình luận