Tội phạm ẩn là gì? Tội phạm rõ ràng và tội phạm ẩn được quy định như thế nào? Tìm hiểu về tội rõ ràng? Các quy định về tội rõ ràng và tội phạm ẩn được quy định như thế nào?
![]()
Mặc dù hệ thống tư pháp ngày càng phát triển tích cực nhưng trên thực tế vẫn còn tình trạng bỏ lọt tội phạm vì những nguyên nhân chủ quan và khách quan khác nhau gây khó khăn cho việc phát hiện và hệ thống tội phạm.1. Thế nào là giấu tội?
Thuật ngữ tội phạm tiềm ẩn do nhà thiên văn học người Bỉ Adolpho Quetelet đặt ra lần đầu tiên vào năm 1830. Hiện nay, phần ẩn của tội phạm được gọi là "phần tội phạm tiềm ẩn", "phần tình tiết tội phạm tiềm ẩn", "tình tiết tội phạm tiềm ẩn" hay "tội phạm tiềm ẩn". Tội phạm ẩn là một khái niệm của hiện thực cuộc sống, bên cạnh khái niệm tội phạm rõ ràng, nó là hai yếu tố cấu thành của tình tiết tội phạm.
Trên cơ sở nghiên cứu hai nội dung này, chúng ta có đủ cơ sở khoa học để đưa ra dự báo tội phạm, bởi “...dự báo tội phạm không chỉ là một hướng nghiên cứu của tội phạm học mà còn là yêu cầu cấp thiết của thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm”. Và theo V.M. Cogan "Khuynh hướng che giấu là đặc điểm của tội phạm nói chung, cũng như mong muốn che giấu việc thực hiện tội phạm là đặc điểm của từng tội phạm". Như vậy, việc điều tra tình hình tội phạm không chỉ căn cứ vào số liệu thống kê tội phạm đã rõ mà còn căn cứ vào tội phạm tiềm ẩn, để công tác phòng ngừa tội phạm được đồng bộ và toàn diện.
Thực tế nghiên cứu đã chỉ ra rằng phần tội phạm che giấu chiếm tỷ lệ rất lớn, lớn hơn nhiều so với phần thực tế tội phạm.
Theo số liệu thống kê của Bộ Công an, từ năm 1990 đến 1999 tỷ lệ phá án ở nước ta đạt 41,08% . Tỷ lệ phá án ở đây chính là sự phản ánh thực tế: Những hành vi có dấu hiệu phạm tội đã được kết thúc điều tra, tức là hành vi đó đã được khởi tố vụ án, khởi tố bị can và đã được tiến hành điều tra theo quy định và có một trong các kết luận sau: Tạm đình chỉ điều tra vì bị can bị bệnh tâm thần hoặc bệnh hiểm nghèo khác; tạm đình chỉ điều tra vì không biết rõ bị can đang ở đâu; đình chỉ điều tra; có kết luận điều tra và đề nghị Viện kiểm sát truy tố.
Còn trường hợp vụ án không xác định được bị can thì không được xem là đã phá được án. Quan điểm về tỷ lệ phá án của nước ta cũng phù hợp với quan điểm của các nhà tội phạm học Đức: “Một hành vi có dấu hiệu phạm tội chỉ được xem là đã được “khám phá” (aufgeklaert), khi cơ quan cảnh sát đã tiến hành điều tra mà kết quả là bắt quả tang nghi can hoặc chí ít cũng xác định rõ được tên của nghi can”.
Tỷ lệ tội phạm ẩn ở các nước cũng rất khác nhau về tình hình tội phạm nói chung và tội phạm cụ thể nói riêng, như: ở Đức năm 1993 tỷ lệ phá án đạt 43,8%, tỷ lệ này ở tội giết người là 82%, ở tội trộm cắp nghiêm trọng là 11,9%; ở Anh năm 2000 tỷ lệ tội phạm ẩn chiếm 70% tổng số vụ phạm tội; theo Tymothy Mason thì số lượng tội phạm ẩn lớn hơn từ 6 đến 8 lần tội phạm rõ[8]. Như vậy, tội phạm ẩn chiếm một tỷ lệ rất lớn, nó không xuất hiện trong bối cảnh của tình hình tội phạm, trong các nghiên cứu tội phạm học cũng có đề cập đến nó nhưng chỉ ở dạng một hiện tượng chung chung, một khẩu hiệu mà không đi sâu vào bản chất của hiện tượng này.
Hiện nay, khái niệm tội phạm ẩn được hiểu dưới nhiều góc độ khác nhau. Theo Timothy Mason, “tội phạm ẩn là tội phạm thực sự không được trình báo với cảnh sát”; Theo Frank Schmalleger, "tội phạm ẩn là một thuật ngữ do các nhà tội phạm học và xã hội học đặt ra để mô tả số lượng tội phạm không được báo cáo hoặc không bị phát hiện và nó trả lời câu hỏi về độ tin cậy của số liệu thống kê tội phạm chính thức".
Theo PGS.TS. Phạm Văn Tình, “phần ẩn của tình tiết tội phạm là tập hợp các hành vi phạm tội (và chủ thể của các hành vi đó) đã xảy ra trong thực tế nhưng không bị phát hiện, không bị xử lý theo quy định của pháp luật hình sự hoặc không được đưa vào thống kê tội phạm”. Còn GS.TS. Nguyễn Xuân Yêm cho rằng “tội phạm ẩn là khái niệm dùng để chỉ một bộ phận trong tổng số các tội phạm xảy ra trong một thời gian nhất định, trên một địa bàn nhất định mà các cơ quan bảo vệ pháp luật (cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tòa án và các cơ quan công an khác có chức năng tiếp nhận tin báo và phát hiện tội phạm) không phát hiện ra, dù tội phạm đã được phát hiện hay chưa phát hiện ra”.
Như vậy, tổng hợp các quan điểm trên, kết hợp với thực tiễn nghiên cứu, chúng tôi đi đến khái niệm tội phạm ẩn như sau: Tội phạm ẩn là số hành vi phạm tội đã xảy ra nhưng không bị phát hiện, không tố giác, không bị xử lý theo quy định của pháp luật hình sự hoặc không có trong thống kê tội phạm.2. Tội “rõ ràng” được định nghĩa như thế nào?
Tội phạm “rõ ràng” là tội phạm đã được hình sự hóa và đưa vào thống kê tội phạm. Người phạm tội đã bị xử lý hình sự bao gồm:
- Tội phạm có bản án đã có hiệu lực pháp luật (kể cả trường hợp miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt) và trường hợp đã đủ điều kiện là tội phạm nhưng đã bị đình chỉ không xét xử vì nhiều lý do như hết thời hiệu tố tụng hình sự, người phạm tội đã chết, v.v.
– Hành vi phạm tội đã bị xử lý hình sự đó được coi là hành vi phạm tội “hiện tại” hoặc hành vi phạm tội “rõ ràng” khi được phản ánh trong thống kê tội phạm. Tình trạng tội phạm dựa trên thống kê này chỉ là tình trạng tội phạm “rõ ràng”.
Ngoài ra, có những tội phạm đã xảy ra nhưng không được đưa vào thống kê tội phạm. Tội phạm đã xảy ra và không được đưa vào thống kê tội phạm như vậy được gọi là tội phạm "ẩn".3. Mối quan hệ giữa tội phạm rõ ràng và tội phạm ẩn:
Tội phạm “công khai” và “ẩn náu” có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Trước hết, tội phạm “rõ” và tội phạm “ẩn” là hai bộ phận của tội phạm đã xảy ra, có quan hệ tỷ lệ nghịch với nhau. Phần “hiển nhiên” càng lớn thì phần “ẩn” càng nhỏ và ngược lại. Phần “hiển nhiên” là phần có thể khẳng định chắc chắn vì nó dựa trên những số liệu thống kê chính xác. Trong khi đó, phần “ẩn ý” là phần chưa thể khẳng định chắc chắn vì chỉ dựa trên suy đoán. Trong đó, phần "hiển nhiên" là một trong những cơ sở của suy đoán này.
Tội phạm nói chung cũng như tội phạm hay nhóm tội phạm cụ thể đều có phần “ẩn”. Mức độ “ẩn” trong các đơn vị thời gian và không gian khác nhau cũng như trong các nhóm tội phạm hoặc tội phạm có thể khác nhau.
Ví dụ: Tội giết người (điều 123 BLHS 2015) được coi là một trong những tội phạm “ẩn” mức độ thấp; ngược lại, tội nhận hối lộ (Điều 354 BLHS 2015) được coi là tội phạm có tính che giấu cao. Nguyên nhân dẫn đến sự khác biệt về mức độ “ẩn” cũng rất khác nhau, nhưng điều này có thể là do đặc điểm riêng của bản thân tội phạm.
Tội phạm “rõ ràng” so với tội phạm thực tế có thể đạt những tỷ lệ khác nhau ở những phạm vi phạm tội, không gian và thời gian khác nhau, nhưng luôn có ý nghĩa đặc biệt, vì nó phản ánh cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm của cả nhà nước và xã hội, đồng thời là cơ sở cần thiết để nghiên cứu phần còn lại của tội phạm - phần “ẩn” hay tội phạm “ẩn”.
Nghiên cứu tội phạm là nghiên cứu về các tình huống tội phạm thực tế, bao gồm tội phạm 'công khai' và 'ẩn'. “Bức tranh” tội phạm thực sự phải là “bức tranh” tổng hợp của tội phạm “rõ ràng” và “ẩn giấu”. Về lý luận, khi nghiên cứu một tình huống tội phạm cụ thể, nên bắt đầu và nghiên cứu chủ yếu những tội phạm “rõ ràng”. Việc mô tả, đánh giá, giải thích và dự đoán chủ yếu và chủ yếu dựa trên cơ sở “rõ ràng” tội phạm. Việc nghiên cứu tội phạm “ẩn” được tiến hành sau và kết quả của nó chỉ được dùng để tham khảo khi nghiên cứu tình hình tội phạm.4. Quy định về tội tiềm ẩn:
Các khái niệm liên quan
– Che giấu: “Che giấu được hiểu là khả năng che giấu khác nhau của từng loại tội phạm hoặc từng nhóm tội phạm” Tùy thuộc vào từng loại tội phạm hoặc từng nhóm tội phạm mà khả năng che giấu của thủ phạm, đối tượng bị hại, người bị hại, năng lực phát hiện và xử lý tội phạm của cơ quan có thẩm quyền. Các nhà tội phạm học ở nước ta chia độ che giấu của tội phạm thành 04 cấp độ (từ cấp độ 1 đến cấp độ 4), trộm cắp tài sản được xếp vào cấp độ II, tức là có tính che giấu thấp.
– Thời gian ẩn: Thời gian ẩn là khoản thời gian từ khi người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội cho đến khi hành vi phạm tội của người đó bị phát hiện. Thời gian ẩn có thể là một khoảng thời gian nhất định nhưng cũng có thể là mãi mãi, phụ thuộc vào khả năng che giấu của người phạm tội, người phạm tội có khả năng che giấu càng tinh vi thì thời gian ẩn càng lâu, nạn nhân tố giác hoặc không tố giác với cơ quan có thẩm quyền hoặc các cơ quan có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự khi nhận được tố giác, tin báo về tội phạm đã không tiến hành xử lí theo quy định hoặc xử lí không đúng quy định hoặc cơ quan điều tra đã không tìm ra người phạm tội.
– Tỉ lệ ẩn: Tỉ lệ ẩn được hiểu là tỉ lệ tương quan giữa tội phạm bị phát hiện và tội phạm chưa bị phát hiện. Để có cơ sở tính toán một cách tương đối chính xác tỉ lệ tội phạm ẩn phải dựa vào nhiều nguồn số liệu khác nhau (nạn nhân, cơ quan tư pháp hình sự…), do những hạn chế trong khâu thu thập số liệu, chúng tôi sử dụng nguồn số liệu của các bản án hình sự và nguồn số liệu điều tra xã hội học do chúng tôi thực hiện.
Phân loại tội phạm ẩn
Về loại tội phạm ẩn: Trên cở sở nghiên cứu lí luận và thực tiễn, tác giả chia tội phạm ẩn thành ba loại: Tội phạm ẩn khách quan (hay còn gọi là tội phạm ẩn tự nhiên); tội phạm ẩn chủ quan (hay còn gọi là tội phạm ẩn nhân tạo) và tội phạm ẩn thống kê, cụ thể:
Thứ nhất, tội phạm ẩn khách quan: Tội phạm ẩn khách quan là những tội phạm đã xảy ra trong thực tế, song các cơ quan có thẩm quyền phát hiện, xử lí tội phạm không có thông tin về chúng. Thứ hai, tội phạm tiềm ẩn về mặt chủ quan: Tội phạm có ẩn ý về mặt chủ quan là tội phạm đã xảy ra trên thực tế, cơ quan có thẩm quyền đã thu thập được thông tin về tội phạm đó để phát hiện và xử lý nhưng vì những lý do khác nhau mà tội phạm này không bị xử lý trong một thời hạn nhất định hoặc vĩnh viễn hoặc không thể xử lý hoặc xử lý không đúng quy định của pháp luật.
Thứ ba, thống kê tội phạm ẩn: Cho đến nay, có nhiều quan điểm khác nhau về thống kê tội phạm ẩn. Theo kết quả nghiên cứu của chúng tôi, chúng tôi tin rằng tội phạm ẩn theo thống kê có thể xuất hiện ở quốc gia này nhưng không xuất hiện ở quốc gia khác, nó có thể xuất hiện ở thời kỳ này nhưng không ở thời kỳ khác. Việc có thống kê tội phạm ẩn hay không phụ thuộc vào luật thống kê tội phạm của mỗi quốc gia.
Hiện nay ở nước ta có những ẩn số thống kê về tội phạm ở nước ta. Tội ẩn thống kê là tất cả các tội mà bị cáo bị tòa án xét xử theo bản án hình sự nhưng do quy định của Luật thống kê tội phạm không đủ số lượng tội phạm nên loại ra khỏi thống kê.
Lý do ẩn giấu của tội ác
nguyên nhân chủ quan
Theo quy định của pháp luật hình sự, việc phát hiện tội phạm có thể được thực hiện thông qua các hình thức sau: Tố giác, tin báo về tội phạm như tố giác tội phạm của công dân; Tạp chí của cơ quan nhà nước hoặc tổ chức xã hội; tin tức truyền thông đại chúng; Cơ quan chức năng trực tiếp phát hiện tội phạm; Kẻ tấn công đã thú nhận.
Tuy nhiên, vì nhiều lý do khác nhau, các nguồn tin về tội phạm nêu trên không có được. Nguyên nhân chủ quan của tội phạm có nhiều nhưng có thể kể đến:
– Sợ dư luận (tội phạm tình dục); Sợ bị trả thù (đối tượng hoạt động tội phạm có tính chất xã hội đen); Có sự thỏa thuận giữa nạn nhân, gia đình và tội phạm.
- Đe dọa nạn nhân, người làm chứng để họ không tố giác tội phạm; Thỏa thuận với nạn nhân, người làm chứng về việc không tố giác tội phạm; Dùng thủ đoạn tinh vi để che đậy tội phạm, không khai nhận tội. Hối lộ cơ quan có thẩm quyền để thoát tội.
Người biết tội phạm nhưng không dám tố giác vì sợ bị trả thù hoặc vì ở gần kẻ tấn công nên không khai báo, hoặc vì thỏa thuận với kẻ tấn công để nhận được lợi ích vật chất nào đó nên không tố giác tội phạm.
Nguyên nhân khách quan
Đây là nguyên nhân hoàn toàn nằm ngoài tầm kiểm soát của cơ quan có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự cũng như của bản thân người bị hại. Họ không có thông tin về tội phạm, ngay cả khi tội phạm thực sự xảy ra. Có các trường hợp sau:
- Tội ác thực sự đã xảy ra nhưng ngay cả nạn nhân cũng không biết về nó. Do đó, tội phạm tự nhiên không được báo cáo và không bị phát hiện.
- Tội phạm thực sự đã xảy ra, người bị hại biết nhưng không có cơ hội khai báo, vụ án cũng không có nhân chứng, tình tiết quan trọng để cơ quan điều tra tiến hành điều tra vụ án.
Bởi để có cái nhìn khách quan và tương đối đầy đủ về thực trạng tình hình tội phạm, trước hết cần phải dựa đồng thời vào dữ liệu về tội phạm rõ ràng và dữ liệu về tội phạm ẩn. Sở dĩ có sự kết hợp này bởi không phải mọi tội phạm xảy ra trên thực tế đều bị phát hiện và xử lý về mặt hình sự. Có nhiều tội phạm xảy ra trên thực tế nhưng vì nhiều lý do khác nhau mà chúng không bị phát hiện nên không bị xử lý hình sự. Vì vậy, việc nhận thức đúng đắn, thống nhất về tội phạm rõ ràng và tội phạm tiềm ẩn có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong công tác thống kê tội phạm cũng như đánh giá một cách tương đối thực trạng tội phạm tiềm ẩn, giúp các cơ quan có thẩm quyền có cái nhìn tương đối đầy đủ về tình hình tội phạm, trên cơ sở đó đưa ra các biện pháp phòng ngừa tội phạm sát với thực tế.
Nội dung bài viết:
Bình luận