Buôn lậu gian lận thương mại là gì?

Buôn Lậu Gian Lận Thương Mại Là Gì
buôn lậu gian lận thương mại là gì

1. Khái niệm  gian lận thương mại 

 Gian lận thương mại là hành vi gian dối, xảo quyệt hoặc lừa dối  trong lĩnh vực thương mại thông qua hoạt động mua bán, trao đổi, xuất nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ nhằm  thu lợi bất chính. Mục đích của  gian lận thương mại là nhằm thu lợi bất chính thông qua việc thực hiện thành công hành vi gian dối, lừa đảo. Chủ thể tham gia  gian lận thương mại bao gồm: người mua, người bán hoặc cả người mua và người bán theo chủ thể của hàng hóa.  

 Gian lận thương mại là một hiện tượng có tính chất lịch sử, chỉ khi có sản xuất hàng hóa, khi sản phẩm được mua bán trên thị trường, khi có người mua và người bán thì mới nhận ra giá trị  kết tinh trong hàng hóa. Gian lận thương mại cũng  xuất hiện. Sản xuất nguyên liệu ngày càng phát triển, thị trường  mở rộng,  sản phẩm được trao đổi, mua bán trên thị trường ngày càng nhiều, tiêu chuẩn và chủng loại hàng hóa ngày càng đa dạng, thủ đoạn gian lận ngày càng phong phú, thương mại cũng ngày càng phát triển. phức tạp và tinh vi. Ngày nay, mặc dù  khó đạt được mục tiêu xã hội hóa toàn cầu, nhưng toàn cầu hóa  kinh tế  là một quá trình tất yếu khách quan dẫn đến gian lận thương mại  toàn cầu trên cơ sở  khác biệt giữa các nhà nước, các quốc gia độc lập.  

 Gian lận thương mại ở Việt Nam không phải là vấn đề mới, từ xa xưa ông cha ta đã đúc kết  gian lận thương mại trong câu: “Buôn lậu, gian lận” để chỉ những mặt tiêu cực của thương mại, để mọi người cảnh giác với những chiêu trò, thủ đoạn. , và lừa dối khách hàng của những kẻ lừa đảo. Hiện nay, chúng ta đang phát triển nền kinh tế thị trường nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước. Chấp nhận cơ chế thị trường nhất thiết phải chấp nhận cạnh tranh. Cạnh tranh là động lực của sự phát triển. Nguyên nhân và động cơ cuối cùng của cạnh tranh là lợi nhuận. Trong cạnh tranh, chắc chắn sẽ xuất hiện những hình thức, thủ đoạn gian lận thương mại phức tạp, tinh vi dẫn đến các hành vi trốn thuế, trốn sự kiểm soát của Nhà nước, buôn lậu, gian lận, tham nhũng, trộm cắp bí quyết sản xuất, tiêu cực cạnh tranh  phi kinh tế... Như vậy,  mục đích của hành vi gian dối trong lĩnh vực thương mại có thể coi là nhằm thu  lợi bất chính. 

 Ở nước ta hiện nay chưa có  văn bản quy phạm pháp luật nào đề cập  đầy đủ đến khái niệm  gian lận thương mại cũng như hành vi gian lận thương mại trong lĩnh vực hải quan. Mặc dù vậy, thuật ngữ gian lận thương mại được sử dụng  rộng rãi trong các ban, ngành và tổ chức khác nhau. Sau đây, chúng ta xem xét quan điểm về định nghĩa gian lận thương mại của Tổ chức Hải quan Thế giới. 

 2. Gian lận thương mại trong hải quan 

 Khác với hành vi gian lận thương mại nói chung, gian lận thương mại trong lĩnh vực hải quan bao gồm các hành vi gian dối nhằm trốn tránh sự kiểm soát của cơ quan hải quan để trốn thuế xuất khẩu, nhập khẩu. 

 Định nghĩa về gian lận hải quan thương mại  đã được thảo luận nhiều lần bởi Hội đồng Hợp tác Hải quan Quốc tế (nay là Tổ chức Hải quan Thế giới - WCO). Ngày 09/6/1977, các nước thành viên họp tại Nairobi (Kenya) đã đưa ra định nghĩa: “Gian lận thương mại trong lĩnh vực hải quan là hành vi vi phạm pháp luật hải quan, lừa dối hải quan để trốn tránh hải quan. trốn tránh một phần hoặc toàn bộ việc nộp thuế xuất nhập khẩu, vi phạm các điều cấm hoặc hạn chế do luật hải quan quy định nhằm thu được một số lợi nhuận nhất định từ việc vi phạm  luật này”.  

 Hiện nay trong xu thế toàn cầu hóa, thương mại quốc tế ngày càng phát triển, gian lận thương mại ngày càng phức tạp và tinh vi hơn. Vì vậy, tại hội nghị quốc tế lần thứ 5 về chống gian lận thương mại trong lĩnh vực Hải quan do WCO triệu tập tại Brussels, Bỉ ngày 9/10/1995 đã thống nhất đưa ra một định nghĩa mới như sau: "gian lận thương mại trong lĩnh vực Hải quan là hành vi vi phạm các điều khoản pháp qui hoặc pháp luật Hải quan nhằm trốn tránh hoặc cố ý trốn tránh nộp thuế Hải quan, phí và các khoản thu khác đối với việc di chuyển hàng hóa thương mại hoặc nhận và có ý định nhận việc hoàn trả trợ cấp hoặc phụ cấp cho hàng hóa không thuộc đối tượng đó hoặc đạt được hoặc cố ý đạt được lợi thế thương mại bất hợp pháp gây hại cho các nguyên tắc và tập tục cạnh tranh thương mại chân chính". Hội nghị cũng đã phân tích, tổng hợp, đúc kết và liệt kê 16 loại hành vi gian lận thương mại chủ yếu. 

  Trên cơ sở đó với thực tiễn ở Việt Nam, khái niệm gian lận thương mại được biết đến như sau: "gian lận thương mại trong lĩnh vực Hải quan là hành vi gian lận các luồng sản phẩm xuất nhập khẩu bằng cách lợi dụng sơ hở của luật pháp, chính sách và quản lý của các cơ quan Nhà nước để lẩn tránh việc kiểm tra kiểm soát của Hải quan nhằm trốn tránh nghĩa vụ đối với Nhà nước và thu lợi bất chính cho riêng mình". 

  Sự khác nhau giữa buôn lậu và gian lận thương mại 

 Căn cứ vào điều 153 Bộ luật hình sự có thể, rút ra khái niệm buôn lậu "Buôn lậu là hành vi buôn bán trái phép qua biên giới hàng hóa, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý hoặc vật phẩm thuộc di tích lịch sử văn hóa".  

 Theo tổ chức Hải quan Thế giới WCO: "gian lận thương mại trong lĩnh vực Hải quan là hành vi vi phạm pháp luật Hải quan, lừa dối Hải quan để lẩn tránh một phần hoặc toàn bộ việc nộp thuế xuất, nhập khẩu, vi phạm các biện pháp cấm hoặc hạn chế do luật pháp Hải quan quy định, để thu được khoản lợi nào đó trong việc vi phạm này".  

 So sánh khái niệm gian lận thương mại trong lĩnh vực Hải quan với khái niệm buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới có thể thấy có những điểm khác nhau sau: 

 

 Gian lận thương mại thực chất đó là tiến hành hoạt động xuất nhập khẩu có phép tắc, công khai đến cơ quan Hải quan để làm thủ tục (khai báo, kiểm tra, nộp thuế) và công khai, hợp pháp đưa hàng hóa qua cửa khẩu. nhưng lợi dụng những kẽ hở để khai báo gian dối như về mẫu mã,về số lượng, về chất lượng...nhằm đạt được kết quả cuối cùng là gian lận về mức thuế phải nộp. Hành vi này có khi chỉ là thủ đoạn riêng của chủ hàng khi có sự tiếp tay của một số nhân viên Hải quan biến chất.  Buôn lậu là hành vi lén lút đưa hàng hóa xuất nhập khẩu qua biên giới trốn tránh hoặc chống lại sự kiểm tra, kiểm soát của Hải quan bằng cách không đi qua cửa khẩu, hoặc tuy có đi qua cửa khẩu nhưng dùng thủ đoạn bí mật bất hợp pháp như trà trộn hàng lậu trong các hàng hóa khác có làm thủ tục, cấu tạo chỗ bí mật để giấu hàng lậu...để che dấu hàng hóa, trốn tránh, chống lại sự kiểm tra của Hải quan, nhằm đạt được lợi ích cuối cùng là thu được lợi nhuận thặng dư siêu ngạch. Các hành vi buôn lậu đôi khi rất ít giá trị, nhưng phần lớn chúng được thực hiện bởi các tổ chức bất hợp pháp với các đường dây bất hợp pháp xuyên biên giới, đôi khi xuyên quốc gia. Vấn đề  là ở Việt Nam cũng như nhiều nước trên thế giới, hai khái niệm này chưa được phân định rõ ràng. Nhiều nước coi buôn lậu  là hành vi gian lận thương mại. Tổ chức Hải quan thế giới, tại Hội nghị  chống gian lận thương mại lần thứ 5, đã xếp buôn lậu là một  hình thức gian lận thương mại, nhưng coi đây là một loại  gian lận thương mại đặc biệt nguy hiểm. 

 Ở Việt Nam hiện nay, buôn lậu được coi là hành vi vi phạm pháp luật chứ không phải là hành vi gian lận thương mại.  Theo BLHS 2000 quy định tại các điều 153 và  154, buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới là hành vi vi phạm pháp luật hình sự và bị coi là tội phạm. Hai tội danh này tương ứng với hai khung hình phạt khác nhau. Tội buôn lậu (Điều 153) có mức phạt tiền 10 triệu đồng hoặc phạt tù  6 tháng, cao nhất là tử hình. Tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới (Điều 154) mức hình phạt thấp nhất là phạt tiền  5 triệu đồng, phạt cải tạo không giam giữ 2 năm hoặc  3 tháng tù, mức hình phạt thấp nhất cao nhất là 10 năm tù thuật ngữ. 

 BLHS 2000 không đề cập đến hành vi GLTM nên có thể nói hành vi gian lận thương mại khác với tội  buôn lậu. Về mặt thực thi pháp luật, có thể truy cứu trách nhiệm hình sự đối với mọi đối tượng có hành vi thỏa mãn dấu hiệu cấu thành tội “Vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới” (Điều 154 Bộ luật Hình sự). ). Điều này giúp làm rõ ranh giới giữa buôn lậu, vận chuyển  trái phép hàng hóa qua biên giới với  gian lận thương mại. 

  Tuy nhiên, trong trường hợp chủ hàng cất giấu  hàng hóa, không có chứng từ hợp lệ khi xuất nhập khẩu hoặc khai báo gian dối khi qua biên giới thì cũng có thể coi đây là hành vi vận chuyển trái phép hàng hóa và có thể bị truy cứu trách nhiệm trước pháp luật. Mã hóa hoặc xử phạt theo quy định tại Điều 12, 13 Nghị định 138/2004/NĐ-CP về xử phạt hành vi trong lĩnh vực hải quan. Ở đây, một vấn đề nổi cộm là cùng một hành vi vi phạm như không khai báo hoặc khai báo không đúng khi vận chuyển hàng hóa qua biên giới... thì việc xử lý có thể áp dụng điều 153 BLHS ghép về tội “buôn lậu” nhưng như nhau. cũng có thể áp dụng Điều 12 Nghị định 130/2004/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý nhà nước về hải quan. Vì vậy, việc phân định rõ ràng ranh giới để xác định tội phạm buôn lậu, gian lận thương mại là  vấn đề cấp thiết cần được điều tra, giải quyết.  Theo quy định của pháp luật Việt Nam, gian lận thương mại không phải là  tội phạm trong BLHS nhưng những biểu hiện đặc trưng của nó  trùng  với tội buôn lậu, một phần của gian lận thương mại là buôn lậu và buôn lậu bao gồm cả gian lận thương mại. Hai khái niệm này thường đi đôi, gắn bó với nhau trong vô thức xã hội, chúng có sự giao thoa với nhau nhất định nhưng không bao hàm tất cả. Nói riêng về gian lận thương mại, bên cạnh hành vi buôn lậu, gian lận thương mại còn bao gồm nhiều yếu tố khác như: buôn bán hàng giả, trộm cắp mẫu mã, khai man số lượng, chất lượng hàng hóa... 

 Điểm khác nhau cơ bản giữa gian lận thương mại và buôn lậu thể hiện ở chỗ trước hết hành vi buôn lậu  là: 

 

 Gian lận thương mại nhưng ở mức độ cao hơn,  phức tạp hơn và nghiêm trọng hơn. Đây là trường hợp  gian lận thương mại đặc biệt. Về bản chất, các đối tượng buôn lậu ưa mạo hiểm, sử dụng “cơ bắp” và  phương tiện cần thiết để đưa hàng qua biên giới.  Bản chất của gian lận thương mại là “âm mưu, chủ mưu” lợi dụng những kẽ hở, sự mập mờ, tính thiếu chính xác và toàn diện về mặt khoa học trong pháp luật, chính sách của  cơ quan quản lý chức năng để công khai thực hiện hành vi gian dối, lừa đảo xuyên biên giới nhằm thu lợi bất chính. Phạm vi  khái niệm gian lận thương mại rộng hơn tội buôn lậu.  Nếu nó nguy hiểm cho nền kinh tế, buôn lậu có tác động nghiêm trọng hơn nhiều. Về xử lý, việc chống gian lận thương mại trong khu vực hải quan khó khăn hơn, khung xử phạt nhẹ hơn. Ở góc độ nhận thức, buôn lậu dễ ​​nhận thấy hơn  gian lận thương mại  thường núp dưới những lớp vỏ  hợp pháp.  Có thể nói, buôn lậu trước hết là một thủ đoạn lừa đảo thương mại trong lĩnh vực hải quan với mức độ nguy hiểm cho xã hội đáng kể. Điều này có nghĩa là hành vi khách quan, gian lận thương mại hàng hóa phải được coi là đặc biệt nguy hiểm, mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự (về tội buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới). ). Dưới ngưỡng này được coi là hành vi gian lận thương mại nguy hiểm, không đáng kể và chỉ bị xử lý hành chính.  

 3. Các hình thức gian lận thương mại 

 Trong nhiều năm, hiện tượng gian lận thương mại trong hoạt động quốc tế đã trở nên phổ biến trên toàn thế giới và trở thành mối đe dọa thực sự đối với sự phát triển về kinh tế, văn hóa, xã hội và an ninh chính trị của các quốc gia. Những hậu quả xấu của nó có tác động rõ rệt và nghiêm trọng đến mọi mặt của đời sống xã hội, đi ngược lại với lợi ích của Nhà nước, làm tổn hại đến quyền lợi của người dân, phá hoại môi trường cạnh tranh lành mạnh của nền kinh tế Thế giới, đồng thời gây tốn kém không nhỏ cho ngân sách các quốc gia trong việc thực hiện các biện pháp phòng chống gian lận thương mại. 

  Vì những tác hại nghiêm trọng của tệ nạn này, tổ chức của Hải quan Thế giới đã triệu tập Hội nghị chống gian lận thương mại với sự tham gia của đại diện Hải quan từ hơn 50 nước và tổ chức quốc tế. Hội nghị đã xác định các hình thức gian lận thương mại và đề ra các biện pháp cụ thể phòng chống tệ nạn này.  

 Theo tài liệu số 36 623 ngày 28/5/1995 của Hội nghị Quốc tế lần thứ V về chống gian lận thương mại do WCO họp tại Brussels ( Bỉ ) đã khẳng định gian lận thương mại tồn tại dưới 16 hình thức sau: 

 

 1- Buôn lậu hàng hóa qua biên giới hoặc ra khỏi kho Hải quan 

 

 2- Khai báo sao 

 

 3- Khai tăng, giảm giá trị hàng hóa 

 

 4- Lợi dụng chế độ ưu đãi xuất xứ (kể cả chế độ hạn ngạch thuế ) 

 

 5- Lợi dụng chế độ ưu đãi hàng gia công 

 

 6- Lợi dụng chế độ tạm nhập tái xuất 

 

 7- Lợi dụng yêu cầu về giấy phép xuất nhập khẩu ( qua thỏa thuận lợi dụng giấy phép nhập hàng dệt cho trang bị quân đội để nhập hàng dệt nói chung) 

 

 8- Lợi dụng chế độ quá cảnh (mang hàng hóa quá cảnh để tiêu dùng ở nước hàng đi qua ) 

 

 9- Khai sai về số lượng, trọng lượng, chất lượng hàng hóa 

 

 10- Lợi dụng chế độ mục đích sử dụng, kể cả buôn bán trái phép hàng được ưu đãi thuế (Lợi dụng sự ưu đãi của Chính phủ về thuế xuất khẩu dành cho những đối tượng sử dụng nhất định ) 

 

 11- Vi phạm đạo luật về diễn giải thương mại hoặc quy định về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 

 

 12- Sản xuất và lưu thông hàng giả, hàng ăn cắp mẫu mã 

 

 13- Hàng giao dịch buôn bán không có sổ sách 

 

 14- Yêu cầu giả, khống việc hoàn hoặc truy hoàn thuế Hải quan (kể cả làm chứng từ giả về hàng đã xuất khẩu) 

 

 15- Kinh doanh "ma", đăng ký kinh doanh lậu liễm nhằm hưởng tín dụng trái phép 

 

 16- Thanh lý có chủ đích (nghĩa là thành lập Công ty kinh doanh một thời gian ngắn, để nợ thuế, khi số tiền nợ thuế lên cao thì tuyên bố thanh lý để tránh nộp thuế, giám đốc Công ty đó thành lập Công ty mới ngay sau đó với cùng ý định. Loại gian lận này còn được gọi là "Hội chứng Phượng hoàng") 

 

 Ngoài ra, gian lận thương mại còn thể hiện trong việc vận chuyển  hàng hóa. Là việc thông qua một nước thứ ba nhằm che giấu nguồn gốc thực sự của hàng hóa nhằm trốn tránh hải quan của nước nhập khẩu. Trong trường hợp này, nước thứ ba là nước cung cấp chứng từ giả hoặc dùng  thủ đoạn thay đổi xuất xứ hàng hóa từ nước xuất khẩu sang nước quá cảnh. Cho đến khi hàng hóa được nhập khẩu vào nước nhập khẩu, họ sẽ tránh được các quy định hạn chế sản phẩm của nước nhập khẩu như hạn ngạch, chế độ ưu đãi, bản quyền sản xuất, v.v. 

 Cách phân loại trên thể hiện quan điểm khoa học và là kết quả nghiên cứu  thực tiễn trong nhiều năm  hoạt động kinh doanh quốc tế của nhiều nước trên thế giới. Nó trình bày những đặc điểm chung của tình hình gian lận thương mại toàn cầu, trong đó có Việt Nam. Tình hình thực tế ở nước ta trong thời gian qua cũng cho thấy, gian lận thương mại trong  thương mại quốc tế cũng chính là  hình thức mà Tổ chức Hải quan thế giới đã xác định như đã nêu ở trên.

 

Nội dung bài viết:

    Hãy để lại thông tin để được tư vấn

    comment-blank-solid Bình luận

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo