1.Một số câu hỏi chung về bồi thường, bồi thường và khắc phục hậu quả
Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là tình tiết có trong một vụ án cụ thể, làm giảm trách nhiệm hình sự của người phạm tội khi xem xét bản án. Việc áp dụng các tình tiết giảm nhẹ nhằm thể hiện chủ trương khoan hồng của Đảng và Nhà nước. Tình tiết “Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả” là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. (Mã người) ; Đây là trường hợp người vi phạm đã gây thiệt hại, tức là thiệt hại đã thực sự xảy ra nhưng người vi phạm đã sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại do mình gây ra cho người bị thiệt hại hoặc đã tự nguyện khắc phục hậu quả của hành vi phạm tội.
Cải chính, bồi thường hoặc bồi thường là ba hành vi có nội dung khác nhau chi phối ba hành vi khác nhau của người phạm tội, nên có thể nói điểm b khoản 1 Điều 51 quy định tối đa 3 tình tiết giảm nhẹ chứ không phải một tình tiết giảm nhẹ; nhưng tính chất của các tình tiết này có tính chất tương tự nhau nên phải quy định ở cùng một điểm để áp dụng đối với người phạm tội.
Bồi thường là việc sửa chữa hoặc sửa chữa tài sản bị hư hỏng do hành vi tội phạm. Ví dụ: Sửa điện thoại hỏng, xe hỏng; sửa cái bàn, cái ghế gãy...
Bồi thường là sự bồi thường vật chất cho những thiệt hại do tội phạm gây ra. Ví dụ: Một người trộm điện thoại để bán lại lấy tiền, khi phát hiện vụ việc không lấy lại được điện thoại, người phạm tội đã tự nguyện trả cho chủ sở hữu một khoản tiền để bồi thường điện thoại. Chỉ có cái gì không còn nữa mới là vấn đề bồi thường, chỉ có thể bồi thường thiệt hại vật chất chứ không thể bù đắp được những mất mát về tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự.
Biện pháp khắc phục là biện pháp khắc phục những thiệt hại ngẫu nhiên hoặc do hậu quả do vi phạm gây ra mà không thể bồi thường hoặc sửa chữa. Ví dụ: Trong trường hợp giết người, cố ý gây thương tích, người phạm tội tự nguyện lo mai táng, chăm sóc y tế, trợ cấp đau khổ về vật chất hoặc tinh thần cho nạn nhân hoặc người đại diện của họ... thì đây là hành vi tự nguyện khắc phục hậu quả. Không phải tất cả các hậu quả đều cần được khắc phục mới được coi là tình tiết giảm nhẹ mà người phạm tội chỉ có thể khắc phục được một hoặc nhiều hậu quả mà cũng có thể được coi là tình tiết giảm nhẹ.
Người vi phạm phải tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả để được coi là tình tiết giảm nhẹ. Nếu do ảnh hưởng của người khác hoặc cơ quan công quyền, tổ chức xã hội buộc phải khắc phục, bồi thường hoặc khắc phục hậu quả mà người phạm tội mới chấp hành thì đây không được coi là tình tiết giảm nhẹ cần áp dụng. Hành vi tự nguyện của người phạm tội bao gồm những hành vi nhằm làm ảnh hưởng đến gia đình, người thân, bạn bè, v.v.. bồi thường thay cho anh ta trong khi bị giam giữ hoặc khi mất năng lực. Đối với người dưới 18 tuổi phạm tội thì người giám hộ tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả sẽ được coi là tình tiết giảm nhẹ khi quyết định hình thức xử phạt.
Việc tự nguyện khắc phục, bồi thường hoặc hành động khắc phục phải được thực hiện trước khi tuyên án và ở bất kỳ cấp độ nào, mức độ đó đều phải được coi là tình tiết giảm nhẹ. Ví dụ: Trước khi xét xử sơ thẩm, người phạm tội không tự nguyện sửa chữa thiệt hại mà trước khi xét xử phúc thẩm họ đã tự nguyện bồi thường thiệt hại, tòa phúc thẩm coi đây là tình tiết giảm nhẹ khi quyết định bồi thường thiệt hại. Khi áp dụng tình tiết này, nếu người vi phạm chỉ tự nguyện khắc phục thiệt hại thì xác định là người đó đã tự nguyện sửa chữa thiệt hại, không tính tiền bồi thường hoặc tình tiết khắc phục; nếu người phạm tội tự nguyện sửa chữa, tự nguyện bồi thường, tự nguyện sửa chữa hậu quả thì phải coi mình có 3 tình tiết giảm nhẹ nếu hành vi của mình chỉ trực tiếp gây thiệt hại cho một đối tượng. Ví dụ: A đốt nhà B, làm hư hại nhà và thiêu rụi toàn bộ tài sản trong nhà. Sau khi xảy ra sự việc, A đã sửa chữa nhà của B và bồi thường toàn bộ tài sản bị cháy, đồng thời bàn giao nhà của B cho gia đình B ở trong khi nhà chưa sửa chữa cho B.
2. Những vướng mắc, bất cập trong việc áp dụng tình trạng này

Bồi thường thiệt hại khắc phục hậu quả
Pháp luật không quy định cụ thể số tiền phải sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả toàn bộ hay một phần. Nhưng trong thực tiễn xét xử, Tòa án luôn coi trường hợp người phạm tội chỉ là tình tiết giảm nhẹ, sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục một phần hậu quả. Tuy nhiên, nhiều ý kiến cho rằng mức bồi thường dù thấp nhưng vẫn áp dụng cho trường hợp này; một số cảm thấy rằng phải bồi thường đáng kể để thực thi tình huống này; Tuy nhiên, có người cho rằng nếu bị đơn đã bán toàn bộ tài sản mà chỉ bồi thường được một phần rất nhỏ hậu quả thì cũng phải áp dụng điều này. Thực tế hiện nay nhiều vụ án gây thiệt hại lên tới vài nghìn tỷ đồng, vậy nếu bị cáo bồi thường vài triệu đồng nếu áp dụng điểm b thì có thỏa đáng không? Vấn đề này còn tùy thuộc vào mức độ thiệt hại và năng lực kinh tế của bị đơn; nếu bị cáo bán toàn bộ tài sản để bồi thường một phần rất nhỏ thì xem xét áp dụng biện pháp khắc phục đối với bị cáo. Có trường hợp tài sản trộm cắp được bị cáo trả lại sau khi chiếm đoạt, có ý kiến cho rằng đây không phải là bồi thường nên áp dụng tình tiết “tự nguyện bồi thường” và “hành động khắc phục” cho bị cáo là không đúng.
Trong trường hợp người phạm tội thuộc ba tình tiết “sửa chữa, khắc phục hậu quả, khắc phục hậu quả” nhưng do quy định này chỉ được thể hiện tại một điểm khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Vì vậy, đây chỉ được coi là tình tiết giảm nhẹ. Vấn đề này trên thực tế sẽ gây bất lợi cho người phạm tội.
3. Lời yêu cầu
Để bảo đảm lợi ích cho người phạm tội, khi thực hiện hai hoặc ba hành vi quy định tại điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự thì được xem xét giảm nhẹ nhiều hơn so với người chỉ có một hành vi. Điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự phải được tách thành ba tình tiết độc lập quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Cụ thể: (1) Người phạm tội tự nguyện sửa chữa thiệt hại, (2) Người phạm tội tự nguyện bồi thường thiệt hại, (3) Người phạm tội tự nguyện sửa chữa hậu quả. Cơ quan có thẩm quyền cần hướng dẫn cụ thể việc áp dụng tình tiết giảm nhẹ này về mức bồi thường, bồi thường thiệt hại và biện pháp khắc phục để xem xét giảm nhẹ. Cụ thể có thể di chuyển theo hướng tính tỷ số:
Nếu người phạm tội có khả năng sửa chữa, bồi thường hoặc khắc phục hậu quả đến 20% mức thiệt hại thì nên xem xét giảm nhẹ không quá 20% mức thiệt hại đã khai báo.
Trường hợp người phạm tội có khả năng khắc phục, bồi thường hoặc khắc phục hậu quả đến 50% mức thiệt hại thì xét giảm nhẹ không quá 50% mức thiệt hại đã kê khai.
Trường hợp người phạm tội có khả năng khắc phục, bồi thường hoặc khắc phục hậu quả đến 100% mức thiệt hại thì xét giảm nhẹ không quá 100% mức thiệt hại đã kê khai.
Tóm lại, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là những tình tiết có lợi cho người phạm tội khi áp dụng hình phạt để giảm nhẹ hình phạt. Đây là quy định thể hiện tính nhân văn nên quá trình áp dụng phải được xem xét chi tiết và quy định cũng phải cụ thể cho từng trường hợp. Vì vậy, khi người phạm tội thực hiện từng hành vi độc lập thì phải tách thành từng tình tiết riêng biệt để áp dụng.
Nội dung bài viết:
Bình luận