Bộ Luật Dân sự là một phần quan trọng của hệ thống pháp luật của một quốc gia, điều chỉnh các quyền và nghĩa vụ của cá nhân và tổ chức trong các mối quan hệ dân sự. Tùy theo quốc gia, Bộ Luật Dân sự có thể mang tên khác nhau và có các điều khoản cụ thể riêng biệt, nhưng chức năng cơ bản của nó là tạo ra khung pháp lý để giải quyết các vấn đề dân sự và thương mại.
1. Bộ luật Dân sự mới nhất hiện nay là luật nào?
Tháng 6 năm 2015, Luật Dân sự 2015 đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua và có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2017. Đây là bộ Luật Dân sự mới nhất tại thời điểm cắt kiến thức của tôi vào tháng 9 năm 2021.
Tuy nhiên, vui lòng lưu ý rằng các quy định pháp luật có thể được sửa đổi hoặc bổ sung theo thời gian. Để biết thông tin cụ thể và cập nhật về Luật Dân sự, bạn nên tham khảo nguồn thông tin chính thức từ các cơ quan pháp luật và chính phủ tại Việt Nam hoặc tìm kiếm trên trang web của Bộ Tư pháp hoặc Trung tâm Thông tin Luật pháp của Việt Nam.
2. Các điểm mới của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2023
Bộ luật tố tụng dân sự 2015 đã kế thừa và hoàn thiện những quy định của pháp luật tố tụng dân sự trước đó. Xuất phát từ việc cụ thể hóa và phù hợp với pháp luật nội dung mới; khắc phục những vướng mắc thực thi trong thực tiễn từ Bộ luật tố tụng dân sự trước đây Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 đã có những sửa đổi bổ sung. Tổng hợp những điểm mới của Bộ luật tố tụng dân sự trong bài viết dưới đây:
2.1. Tòa án không được từ chối giải quyết vụ việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng
Quy định này được ghi nhận tại khoản 2 Điều 4 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
Lý do bổ sung vấn đề này là nhằm thể chế hóa tinh thần cải cách tư pháp về Tòa án phải thật sự là chỗ dựa của nhân dân trong việc bảo vệ công lý, quyền con người, đồng thời cụ thể hóa quy định của Hiến pháp, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân về vai trò của Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp cho nên mọi tranh chấp, khiếu kiện của cá nhân, cơ quan, tổ chức về dân sự Tòa án phải có trách nhiệm giải quyết, đồng thời việc việc bổ sung vấn đề này để đồng bộ với Bộ luật dân sự.
Tuy nhiên, tránh việc giải quyết tràn lan, không phải mọi khởi kiện, mọi yêu cầu nào Tòa án cũng thụ lý giải quyết, Bộ luật đã giới hạn vụ việc dân sự chưa có điều luật để áp dụng mà Tòa án thụ lý giải quyết là vụ việc dân sự thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật dân sự nhưng tại thời điểm vụ việc dân sự đó phát sinh và cơ quan, tổ chức, cá nhân yêu cầu Tòa án giải quyết chưa có điều luật để áp dụng.
Việc giải quyết vụ việc dân sự khi chưa có điều luật cụ thể được thực hiện theo phương thức như sau (Điều 43- Điều 45).
- Thẩm quyền của Tòa án thụ lý, giải quyết vụ việc dân sự trong trường hợp chưa có điều luật để áp dụng được thực hiện theo quy định tại các điều từ Điều 35 đến Điều 41 của BTTDS.
- Trình tự, thủ tục thụ lý, giải quyết vụ việc dân sự trong trường hợp chưa có điều luật để áp dụng theo thủ tục chung.
- Khi giải quyết Tòa án căn cứ theo thứ tự sau đây để áp dụng:
+ Tập quán,
+ Nguyên tắc tương tự,
+ Nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, án lệ, lẽ công bằng.
2.2. Bảo đảm tranh tụng trong xét xử (Điều 24)
Nhằm thể chế hóa quan điểm cải cách tư pháp của Đảng về nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên toà xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp. Đồng thời để đảm bảo "nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm" đã được Hiến pháp quy định, theo tinh thần đó Bộ luật tố tụng dân sự đã sửa đổi, bổ sung nguyên tắc Bảo đảm tranh tụng trong xét xử xem đây là một trong những nội dung quan trọng của việc sửa đổi bổ sung của Bộ luật tố tụng dân sự chi phối quá trình tố tụng. Nội dung của nguyên tắc này có những điểm chủ yếu như sau:
a) Nguyên tắc tranh tụng được bảo đảm thực hiện từ khi khởi kiện thụ lý vụ án cho đến khi giài quyết xong vụ án đương sự thực hiện quyền tranh tụng trong xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm.
b) Nội dung của tranh tụng được thể hiện như sau:
- Xác định rõ trách nhiệm, quyền hạn của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng, đặc biệt là quy định rõ ràng về quyền và nghĩa vụ của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
- Đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có quyền thu thập, giao nộp tài liệu, chứng cứ kể từ khi Tòa án thụ lý vụ án dân sự; trình bày, đối đáp, phát biểu quan điểm, lập luận về đánh giá chứng cứ và pháp luật áp dụng để bảo vệ yêu cầu, quyền, lợi ích hợp pháp của mình hoặc bác bỏ yêu cầu của người khác theo quy định của Bộ luật này. Đương sự phải thực hiện các nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, nếu không thực hiện các nghĩa vụ đó thì phải chịu hậu quả pháp lý theo quy định của pháp luật.
- Tòa án có trách nhiệm bảo đảm cho đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự theo quy định của Bộ luật dân sự. Trong các trường hợp xét thấy cần thiết hoặc theo yêu cầu của đương sự theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự thì Tòa án tiến hành thu thập tài liệu, chứng cứ.
- Trong quá trình tố tụng các chứng cứ của vụ án phải được công khai trừ trường hợp không được công khai quy định tại khoản 2 Điều 109 của Bộ luật tố tụng dân sự. Các đương sự đều có quyền được biết, ghi chép, sao chụp tài liệu, chứng cứ do đương sự khác xuất trình hoặc do Tòa án thu thập (trừ tài liệu, chứng cứ không được công khai). Đương sự có nghĩa vụ gửi cho đương sự khác hoặc người đại diện hợp pháp của họ bản sao đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ đã giao nộp cho Tòa án (trừ tài liệu, chứng cứ không được công khai).
Để bảo đảm mọi chứng cứ đều được công khai Tòa án phải tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ cùng với việc hòa giải, đối với những vụ án không được hòa giải hoặc hòa giải không được vẫn phải tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ trước khi đưa vụ án ra xét xử.
- Trong quá trình xét xử, mọi tài liệu, chứng cứ phải được xem xét đầy đủ, khách quan, toàn diện, công khai, trừ trường hợp không được công khai theo quy định tại khoản 2 Điều 109 của Bộ luật này. Tòa án điều hành việc tranh tụng, Hội đồng xét xử chỉ hỏi những vấn đề chưa rõ và căn cứ vào kết quả tranh tụng để ra bản án, quyết định.
2.3. Về sự tham gia của Viện kiểm sát
- Về đối tượng các vụ việc Viện kiểm sát tham gia phiên tòa, phiên họp, cấp sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm như BLTTDS cũ 2004 sửa đổi năm 2011.
- Bộ luật sửa đổi đã bổ sung mới một số nội dung mới như sau:
+ Tại phiên tòa sơ thẩm Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án (Điều 262).
+ Trường hợp Viện kiểm sát vắng mặt tại phiên tòa, phiên họp sơ thẩm, phúc thẩm thì không hoãn phiên tòa (kể cả phiên tòa theo thủ tục rút gọn) trừ trường hợp vụ việc Viện kiểm sát có kháng nghị (Điều 232, khoản 1 Điều 296, khoản 1 Điều 320, khoản 2 Điều 324, khoản 1 Điều 367, khoản 1 Điều 374).
+ Ngay sau khi kết thúc phiên tòa, phiên họp Kiểm sát viên phải gửi văn bản phát biểu ý kiến cho Tòa án để lưu vào hồ sơ vụ án.
2.4. Về thẩm quyền của Tòa án (Chương III từ Điều 26 đến Diều 42)
Bộ luật đã sửa đổi bổ sung về thẩm quyền về các vụ việc dân sự thuộc thẩm quyền của Tòa án nhằm phù hợp với các Bộ luật và luật khác có liên quan và theo tinh thần mở rộng thẩm quyền của Tòa án theo tinh thần cải cách tư pháp, như bổ sung thẩm quyền tương thích Luật cạnh tranh, Luật hôn nhân và gia đình, Bộ luật lao động... Quy định rõ thẩm quyền Tòa án theo cấp, theo lãnh thổ nhằm phù hợp với Luật tổ chức Tòa án và tháo gỡ những khó khăn bất cập từ thực tiễn. Trong đó có 3 vấn đề mới bổ sung cần chú ý:
Thứ nhất. Tòa án có thẩm quyền giải quyết tất cả các tranh chấp, các yêu cầu về dân sự:
Để cụ thể hóa quy định “Tòa án không được từ chối giải quyết vụ việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng” từ Điều 26 đến Điều 33 quy định Tòa án có thẩm quyền giải quyết tất cả các tranh tranh chấp, các yêu cầu về dân sự, trừ trường hợp thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác theo quy định của pháp luật.
Thứ hai, về thẩm quyền của Tòa án theo cấp xét xử
Cụ thể hóa quy định của Hiến pháp và Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, Bộ luật tố tụng dân sự đã quy định Tòa án nhân dân cấp huyện giải quyết sơ thẩm hầu hết các vụ việc dân sự theo đúng tinh thần Nghị quyết 49 của Bộ Chính trị. Tòa án nhân dân cấp tỉnh giải quyết theo thủ tục sơ thẩm vụ việc mà có đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài hoặc cần phải ủy thác tư pháp cho cơ quan đại diện nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài, cho Tòa án, cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài hoặc những tranh chấp mà Tòa án nhân dân cấp tỉnh tự mình lấy lên để giải quyết hoặc theo đề nghị của Tòa án nhân dân cấp huyện; phúc thẩm vụ việc mà bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án nhân dân cấp huyện bị kháng cáo, kháng nghị. Tòa án nhân dân cấp tỉnh không còn thẩm quyền giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật như trước đây mà chỉ có thẩm quyền kiểm tra bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp huyện khi phát hiện có vi phạm pháp luật hoặc có tình tiết mới theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự thì kiến nghị với Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao xem xét, kháng nghị.
Tòa án nhân dân cấp cao giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện trong phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ bằng Hội đồng xét xử gồm 03 Thẩm phán hoặc Hội đồng toàn thể thành viên Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao.
Tòa án nhân dân tối cao giám đốc thẩm những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án khác bằng bằng Hội đồng xét xử gồm 05 Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hoặc toàn thể thành viên Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
Thứ ba, thẩm quyền của Tòa chuyên trách:
Để phù hợp với Luật Tổ chức Tòa án nhân dân về chức năng nhiệm vụ của các Tòa chuyên trách, nhất là đối với “Tòa gia đình và người chưa thành niên” nên Bộ luật tố tụng dân sự đã bổ sung thẩm quyền của các Tòa chuyên trách như sau:
- Thẩm quyền của các Tòa chuyên trách Tòa án nhân dân cấp huyện (Điều 36):
+ Tòa dân sự Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những vụ việc về dân sự, kinh doanh, thương mại, lao động thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện quy định tại Điều 35 của Bộ luật tố tung dân sự.
+ Tòa gia đình và người chưa thành niên Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những vụ việc về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện quy định tại Điều 35 của Bộ luật tố tụng.
+ Đối với Tòa án nhân dân cấp huyện chưa có Tòa chuyên trách thì Chánh án Tòa án có trách nhiệm tổ chức công tác xét xử và phân công Thẩm phán giải quyết vụ việc thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện.
- Thẩm quyền của các Tòa chuyên trách Tòa án nhân dân cấp tỉnh (Điều 38)
+ Tòa dân sự Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm phúc thẩm những tranh chấp, yêu cầu về dân sự.
+ Tòa gia đình và người chưa thành niên Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm phúc thẩm những tranh chấp, yêu cầu về hôn nhân và gia đình.
+ Tòa kinh tế Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm những tranh chấp, yêu cầu về kinh doanh, thương mại.
+ Tòa lao động Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm những tranh chấp, yêu cầu về lao động.
2.5. Về cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng (Chương IV)
Xuất phát từ Luật tổ chức của Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân yêu cầu thực tiển, Bộ luật tố tụng dân sự đã bổ sung quy định về nhiệm vụ quyền hạn của Thẩm tra viên, Thư ký, như sau:
Thứ nhất, nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm tra viên (Điều 50)
Khi được Chánh án Tòa án phân công, Thẩm tra viên có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
- Thẩm tra hồ sơ vụ việc dân sự mà bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật cần xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm;
- Kết luận về việc thẩm tra và báo cáo kết quả thẩm tra, đề xuất phương án giải quyết vụ việc dân sự với Chánh án Tòa án;
- Thu thập tài liệu, chứng cứ có liên quan đến vụ việc dân sự theo quy định của Bộ luật này;
- Hỗ trợ Thẩm phán thực hiện hoạt động tố tụng theo quy định;
-Tực hiện nhiệm vụ khác theo quy định của Bộ luật tố tụng.
Thứ hai, nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm tra viên (Điều 59)
Khi được phân công tiến hành hoạt động tố tụng, Kiểm tra viên có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
- Nghiên cứu hồ sơ vụ việc, báo cáo kết quả với Kiểm sát viên;
- Lập hồ sơ kiểm sát vụ việc dân sự theo phân công của Kiểm sát viên hoặc Viện trưởng Viện kiểm sát;
- Giúp Kiểm sát viên kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự.
Việc bổ sung 2 người tiến hành tố tụng này nhằm thể hiện thẩm quyền và trách nhiệm pháp lý của Thẩm tra viên, Kiểm tra viên giúp cho việc giải quyết theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm, việc giải quyết các vụ án về Hôn nhân và gia đình được thuận lợi.
2.6. Quyền và nghĩa vụ của đương sự
Trên cơ sở bảo đảm thực hiện tốt nguyên tắc tranh tụng trong suốt quá trình giải quyết vụ án; đồng thời khắc phục những vướng mắc do Bộ luật tố tụng dân sự cũ 2004 chưa quy định đầy đủ về quyền và nghĩa vụ của đương sự về hậu quả nếu không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của đương sự nên trong thực tế nhiều đương sự, thậm chí cả nguyên đơn vẫn không chịu hợp tác với Tòa án trong việc giải quyết vụ việc dân sự làm cho Thẩm phán lúng túng không biết giải quyết như thế nào, Bộ luật tố tụng dân sự đã bổ sung các quyền và nghĩa vụ của đương sự.
Quy định Điều 70 BLTTDS đương sự có 26 quyền và nghĩa vụ chung; theo Điều 71 BLTTDS, nguyên đơn ngoài 26 quyền chung có 2 quyền riêng; theo Điều 72 BLTTDS thì bị đơn ngoài 26 quyền chung có 5 quyền riêng; theo Điều 73 BLTTDS thì người có quyền, nghĩa vụ liên quan ngoài 26 quyền chung còn có 3 quyền riêng. Đặc biệt trong các quyền và nghĩa vụ đó Bộ luật đã quy định rõ các nghĩa vụ:
- Tôn trọng Tòa án, chấp hành nghiêm chỉnh nội quy phiên tòa;
- Nộp tiền tạm ứng án phí, tạm ứng lệ phí, án phí, lệ phí và chi phí tố tụng khác theo quy định của pháp luật;
- Cung cấp đầy đủ, chính xác địa chỉ nơi cư trú, trụ sở của mình; trong quá trình Tòa án giải quyết vụ việc nếu có thay đổi địa chỉ nơi cư trú, trụ sở thì phải thông báo kịp thời cho đương sự khác và Tòa án;
- Có nghĩa vụ gửi cho đương sự khác hoặc người đại diện hợp pháp của họ bản sao đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ, trừ tài liệu, chứng cứ không được công khai theo quy định tại khoản 2 Điều 109 của BLTTDS.
Trường hợp vì lý do chính đáng không thể sao chụp, gửi đơn khởi kiện, tài liệu, chứng cứ thì họ có quyền yêu cầu Tòa án hỗ trợ;
- Sử dụng quyền của đương sự một cách thiện chí, không được lạm dụng để gây cản trở hoạt động tố tụng của Tòa án, đương sự khác; trường hợp không thực hiện nghĩa vụ thì phải chịu hậu quả do Bộ luật này quy định.
Đồng thời Bộ luật tố tụng còn quy định hậu quả của việc không nộp chi phí tố tụng theo yêu cầu của Tòa án như sau: nguyên đơn không nộp tiền tạm ứng chi phí định giá tài sản và chi phí tố tụng khác theo quy định của Bộ luật tố tụng thì đình chỉ vụ án. Trường hợp bị đơn có yêu cầu phản tố, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập không nộp tiền tạm ứng chi phí định giá tài sản và chi phí tố tụng khác theo quy định của Bộ luật này thì Tòa án đình chỉ việc giải quyết yêu cầu phản tố của bị đơn, yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (Điểm đ, khoản 1, Điều 217).
2.7. Về người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
Bộ luật tố tụng dân sự (sửa đổi) bên cạnh việc mở rộng các đối tượng được làm người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự đã đổi mới căn bản thủ tục cấp giấy chứng nhận người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự sang thủ tục đăng ký người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Theo đó, ngay sau khi nhận được đề nghị đăng ký người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thì Tòa án phải vào sổ đăng ký người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và xác nhận vào giấy yêu cầu người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được yêu cầu.
2.8. Về bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên trong tố tụng dân sự
Theo quy định của pháp luật dân sự thì người chưa thành niên có đầy đủ năng lực pháp luật dân sự nhưng do họ chưa hoàn thiện về thể chất, tinh thần, chưa có hiểu biết đầy đủ để có thể tự mình thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng nên Bộ luật tố tụng dân sự quy định phải có người đại diện hợp pháp cho người chưa thành niên tham gia tố tụng. Trường hợp người chưa thành niên không có người đại diện thì Tòa án phải chỉ định người đại diện để tham gia tố tụng.
Để bảo ảm lợi ích tốt nhất của trẻ em, phù hợp với đặc điểm tâm lý và sự phát triển bình thường của trẻ em khi phải tham gia tố tụng dân sự, Bộ luật tố tụng dân sự quy định nguyên tắc cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng có trách nhiệm phải bảo vệ người chưa thành niên trong tố tụng dân sự; đối với các vụ việc dân sự mà có đương sự là người chưa thành niên thì Viện kiểm sát phải tham gia các phiên tòa, phiên họp.
Bộ luật tố tụng dân sự đã quy định nhiều thủ tục tố tụng đặc thù, phù hợp và bảo đảm lợi ích tốt nhất với người chưa thành niên như: Tòa án nhân dân sẽ xét xử kín (không xét xử công khai) trong trường hợp đặc biệt cần bảo vệ người chưa thành niên; đối với vụ án có đương sự là người chưa thành niên thì phải có Hội thẩm nhân dân là người đã hoặc đang công tác tại Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em; Hội đồng xét xử không công bố tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án nếu cần giữ bí mật hoặc bảo vệ người chưa thành niên trong trường hợp đặc biệt; trường hợp phải giao người chưa thành niên cho cá nhân hoặc tổ chức trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục hoặc vụ án tranh chấp về nuôi con khi ly hôn hoặc thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn thì phải xem xét nguyện vọng của người đó nếu người chưa thành niên từ đủ bảy tuổi trở lên; bảo vệ tối đa quyền của người làm chứng là người chưa thành niên, theo đó người làm chứng là người chưa thành niên thì không thể bị dẫn giải đến phiên tòa, phiên họp; không phải cam kết khai báo đúng sự thật, không phải cam đoan trước Tòa án về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình.
Bộ luật tố tụng dân sự đã khẳng định nguyên tắc tiến hành hoạt động tố tụng dân sự đối với người chưa thành niên như việc lấy ý kiến của con chưa thành niên hoặc các thủ tục tố tụng khác đối với người chưa thành niên trong tố tụng dân sự phải bảo đảm thân thiện, phù hợp với tâm lý, lứa tuổi, mức độ trưởng thành, khả năng nhận thức của người chưa thành niên, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp, giữ bí mật cá nhân của người chưa thành niên.
2.9. Về tăng cường bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động trong tố tụng dân sự
Thứ nhất, về trách nhiệm cung cấp, giao nộp tài liệu, chứng cứ và nghĩa vụ chứng minh trong vụ án lao động
Để bảo vệ kịp thời quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động, Điều 91 Bộ luật tố tụng dân sự đã quy định đương sự là người lao động trong vụ án lao động không cung cấp, giao nộp được cho Tòa án tài liệu, chứng cứ vì lý do tài liệu, chứng cứ đó đang do người sử dụng lao động quản lý, lưu giữ thì người sử dụng lao động có trách nhiệm cung cấp, giao nộp tài liệu, chứng cứ đó cho Tòa án. Người lao động khởi kiện vụ án đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động thuộc trường hợp người sử dụng lao động không được thực hiện quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động hoặc trường hợp không được xử lý kỷ luật lao động đối với người lao động theo quy định của pháp luật về lao động thì nghĩa vụ chứng minh thuộc về người sử dụng lao động.
Thứ hai, về Hội đồng xét xử vụ án lao động
Quy định đặc thù áp dụng đối với vụ án lao động là Hội đồng xét xử phải có Hội thẩm nhân dân là người đã hoặc đang công tác trong tổ chức đại diện tập thể lao động hoặc người có kiến thức về pháp luật lao động.
Thứ ba, về đại điện cho người lao động, tập thể người lao động
Về nguyên tắc, tổ chức đại diện tập thể lao động là người đại diện theo pháp luật cho tập thể người lao động khởi kiện vụ án lao động, tham gia tố tụng tại Tòa án khi quyền, lợi ích hợp pháp của tập thể người lao động bị xâm phạm; tổ chức đại diện tập thể lao động đại diện cho người lao động khởi kiện vụ án lao động, tham gia tố tụng khi được người lao động ủy quyền. Trường hợp nhiều người lao động có cùng yêu cầu đối với người sử dụng lao động, trong cùng một doanh nghiệp, đơn vị thì họ được ủy quyền cho một đại diện của tổ chức đại diện tập thể lao động thay mặt họ khởi kiện vụ án lao động, tham gia tố tụng tại Tòa án. Đối với vụ việc lao động mà đương sự là người lao động nhưng không có người đại diện và Tòa án cũng không chỉ định được người đại diện thì Tòa án chỉ định tổ chức đại diện tập thể lao động đại diện cho người lao động đó.
Thứ tư, về áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời để bảo vệ kịp thời quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động
Bộ luật tố tụng dân sự đã sửa đổi, bổ sung quy định về biện pháp khẩn cấp tạm thời buộc người sử dụng lao động tạm ứng tiền lương, tiền bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, chi phí cứu chữa tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp, tiền bồi thường, trợ cấp tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp cho người lao động và tạm đình chỉ thi hành quyết định đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, quyết định sa thải người lao động.
2.10. Về chứng cứ (Chương VII từ Điều 91 đến Điều 110)
Thứ nhất, nhằm thể hiện rõ mô hình tố tụng “xét hỏi kết hợp tranh tụng” Bộ luật tố tụng đã quy định rõ quyền và nghĩa vụ của đương sự trong việc cung cấp, thu thập và giao nộp chứng cứ chứng minh.
- Đương sự nào yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình thì phải thu thập, cung cấp, giao nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu đó là có căn cứ và hợp pháp. Đương sự phản đối yêu cầu của người khác đối với mình phải thể hiện bằng văn bản và phải thu thập, cung cấp, giao nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho sự phản đối đó... Đương sự có nghĩa vụ đưa ra chứng cứ để chứng minh mà không đưa ra được chứng cứ hoặc không đưa ra đủ chứng cứ thì Tòa án giải quyết vụ việc dân sự theo những chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ vụ việc.
- Tuy nhiên, do điều kiện đặc thù, để bảo vệ cho người yếu thế Bộ luật tố tụng quy định rõ có một số trường hợp nghĩa vụ chứng minh thuộc về người bị yêu cầu như:
+ Người tiêu dùng khởi kiện không có nghĩa vụ chứng minh lỗi của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ. Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ bị kiện có nghĩa vụ chứng minh mình không có lỗi gây ra thiệt hại theo quy định của Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng;
+ Đương sự là người lao động trong vụ án lao động mà không cung cấp, giao nộp được cho Tòa án tài liệu, chứng cứ vì lý do tài liệu, chứng cứ đó đang do người sử dụng lao động quản lý, lưu giữ thì người sử dụng lao động có trách nhiệm cung cấp, giao nộp tài liệu, chứng cứ đó cho Tòa án;
+ Người lao động khởi kiện vụ án đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động thuộc trường hợp người sử dụng lao động không được thực hiện quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động hoặc trường hợp không được xử lý kỷ luật lao động đối với người lao động theo quy định của pháp luật về lao động thì nghĩa vụ chứng minh thuộc về người sử dụng lao động.
Thứ hai, về giao nộp chứng cứ (Điều 96)
Trong quá trình Tòa án giải quyết vụ việc dân sự, đương sự có quyền và nghĩa vụ giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án. Trường hợp tài liệu, chứng cứ đã được giao nộp chưa bảo đảm đủ cơ sở để giải quyết vụ việc thì Thẩm phán yêu cầu đương sự giao nộp bổ sung tài liệu, chứng cứ. Nếu đương sự không giao nộp hoặc giao nộp không đầy đủ tài liệu, chứng cứ do Tòa án yêu cầu mà không có lý do chính đáng thì Tòa án căn cứ vào tài liệu, chứng cứ mà đương sự đã giao nộp và Tòa án đã thu thập để giải quyết vụ việc dân sự.
2.11. Về án phí, lệ phí và chi phí tố tụng khác
Để phù hợp với thực tiễn giải quyết, xét xử các loại vụ việc, Bộ luật tố tụng dân sự bổ sung thêm các loại chi phí tố tụng khác như: chi phí ủy thác tư pháp ra nước ngoài, chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ, chi phí giám định, chi phí định giá tài sản, chi phí cho người làm chứng, người phiên dịch; chi phí tố tụng khác do luật khác quy định và việc miễn, giảm chi phí tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án... và giao cho Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định cụ thể về chi phí tố tụng và việc miễn, giảm chi phí tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án.
2.12. Về bổ sung các phương thức tống đạt mới
Nhằm khắc phục những vướng mắc trong thực tiễn và tạo thuận lợi hơn nữa cho người khởi kiện, đương sự trong vụ việc dân sự, Bộ luật đã quy định rõ các phương thức tống đạt, trường hợp nào áp dụng phương thức tống đạt trực tiếp, trường hợp nào áp dụng phương thức niêm yết công khai, trường hợp nào thông báo trên phương tiện thông tin; bổ sung thêm các phương thức tống đạt mới thông qua việc cấp, tống đạt, thông báo bằng phương tiện điện tử theo yêu cầu của đương sự hoặc người tham gia tố tụng khác phù hợp với quy định của pháp luật về giao dịch điện tử hoặc bằng phương thức khác áp dụng đối với các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài.
.13. Về thời hiệu khởi kiện (Điều 184, Điều 185, điểm e, khoản 1 Điều 217)
Với tinh thần tương thích với Bộ luật dân sự, Bộ luật tố tụng dân sự quy định: Thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự được thực hiện theo quy định của Bộ luật dân sự.
Nhằm tôn trọng quyền tự định đoạt của đương sự trong quan hệ dân sự, Bộ luật tố tụng dân sự quy định Tòa án chỉ áp dụng quy định về thời hiệu theo yêu cầu áp dụng thời hiệu của một bên hoặc các bên với điều kiện yêu cầu này phải được đưa ra trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ việc. Trường hợp Bộ luật dân sự và pháp luật khác không có quy định về thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự thì Tòa án không áp dụng thời hiệu đối với quan hệ pháp luật đó. Người được hưởng lợi từ việc áp dụng thời hiệu có quyền từ chối áp dụng thời hiệu, trừ trường hợp việc từ chối đó nhằm mục đích trốn tránh thực hiện nghĩa vụ.
Tòa án chỉ ra quyết định đình chỉ việc giải quết vụ án vì lý do thời hiệu khởi kiện đã hết trong trường hợp đương sự có yêu cầu áp dụng thời hiệu trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ án và thời hiệu khởi kiện đã hết.
3. Mọi người cũng hỏi
Câu hỏi 1: Bộ Luật Dân sự mới nhất của Việt Nam là gì?
Trả lời 1: Bộ Luật Dân sự mới nhất của Việt Nam là Luật Dân sự năm 2015, có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2017.
Câu hỏi 2: Bộ Luật Dân sự quy định về những lĩnh vực nào?
Trả lời 2: Bộ Luật Dân sự quy định về nhiều lĩnh vực, bao gồm quyền và nghĩa vụ của cá nhân và tổ chức trong các mối quan hệ dân sự, hợp đồng, trách nhiệm dân sự, sở hữu và quản lý tài sản, và nhiều mặt khác liên quan đến cuộc sống hàng ngày của người dân.
Câu hỏi 3: Có những điểm mới nào trong Luật Dân sự năm 2015?
Trả lời 3: Các điểm mới trong Luật Dân sự năm 2015 bao gồm sự điều chỉnh và cập nhật về quyền và nghĩa vụ của cá nhân và tổ chức, các quy định về hợp đồng, trách nhiệm dân sự, quyền thừa kế, sở hữu tài sản, và quyền của người tiêu dùng, để phù hợp với phát triển của xã hội và kinh tế.
Câu hỏi 4: Có cách nào để xem nội dung chi tiết và cập nhật về Luật Dân sự hiện hành?
Trả lời 4: Để xem nội dung chi tiết và cập nhật về Luật Dân sự hiện hành, bạn nên tham khảo nguồn thông tin chính thức từ các cơ quan pháp luật và chính phủ tại Việt Nam hoặc tìm kiếm trên trang web của Bộ Tư pháp hoặc Trung tâm Thông tin Luật pháp của Việt Nam. Điều này giúp bạn có thông tin mới nhất và chính xác về các quy định và sửa đổi trong Luật Dân sự.
Nội dung bài viết:
Bình luận