Luật Minh Khuê trân trọng giới thiệu nội dung cuốn sách “Bình luận khoa học Bộ luật dân sự 2015” do TS Nguyễn Minh Tuấn xuất bản năm 2016. Cuốn sách là tài liệu tham khảo hữu ích giúp bạn đọc thống nhất áp dụng các quy định của pháp luật dân sự một cách hiệu quả.1. Về tác giả
Cuốn sách “Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự 2015” do TS Nguyễn Minh Tuấn chủ biên, tác giả là giảng viên Bộ môn Luật Dân sự, Khoa Luật Dân sự, Trường Đại học Luật Hà Nội.
Nhóm tác giả bao gồm:
-Tiến sĩ. Vương Thanh Thủy (Từ tiết 01 đến tiết 85)
- ThS. Chu Thị Lam Giang (Từ tiết 86 đến tiết 171)
- ThS. Kiều Thị Thùy Linh (Từ điều 172 đến điều 257)
- ThS. Hoàng Thị Loan (Từ tiết 258 đến tiết 343)
- ThS. Nguyễn Văn Hồi (Từ Điều 344 đến Điều 429)
- ThS. Hoàng Ngọc Hùng (Từ Điều 430 đến Điều 460)
- ThS. Lê Thị Giang (Từ điều 516 đến điều 608)
-Tiến sĩ. Nguyễn Minh Tuấn (Từ điều 461 đến điều 515 và từ điều 609 đến điều 689)
2. Giới thiệu tranh sách
Sách Bình Luận Học Thuật Bộ Luật Dân Sự 2015 (TS. Nguyễn Minh Tuấn)
Tác giả: TS Nguyễn Minh Tuấn (chủ biên)
Nhà xuất bản tư pháp
3. Xem trước sách
Cuốn sách ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu tìm hiểu về bình luận khoa học Bộ luật Dân sự năm 2015 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam của bạn đọc. Với kết cấu gồm 6 phần, 27 chương, 698 điều của Bộ luật Dân sự năm 2015 có phạm vi điều chỉnh rộng, liên quan đến hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội. Vì vậy, việc nghiên cứu sâu nội dung của từng điều luật có ý nghĩa quan trọng để hiểu, nhận xét và áp dụng đúng các quy định của Bộ luật Dân sự để giải quyết các tranh chấp về tài sản, nhân thân và các yêu cầu dân sự nhằm bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, lợi ích của quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng.
Cách tiếp cận của tác giả là phân tích, bình luận nội dung của từng điểm, khoản của các điều luật và đưa ra một số ví dụ thực tế để phân tích, diễn giải để người đọc hiểu đúng tinh thần của điều luật.
Dưới đây là một số đoạn trích từ các bài bình luận của cuốn sách để bạn tham khảo:
Mục 3. Nguyên tắc cơ bản của luật dân sự
1. Tất cả các thể nhân và pháp nhân đều bình đẳng và không được sử dụng bất kỳ cơ sở nào để phân biệt đối xử; cũng được pháp luật bảo vệ về các quyền nhân thân và tài sản.
2. Các thể nhân, pháp nhân xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình trên cơ sở tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận. Mọi cam kết, thỏa thuận không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội đều có hiệu lực đối với các bên và phải được các chủ thể khác tôn trọng. 3. Các thể nhân, pháp nhân phải xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình một cách thiện chí, trung thực.
4. Việc xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự không được làm phương hại đến lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng và quyền, lợi ích hợp pháp của người khác.
5. Các thể nhân, pháp nhân tự chịu trách nhiệm về việc không thực hiện hoặc thực hiện không tốt nghĩa vụ dân sự của mình.
Bình luận:
Bình đẳng trong quan hệ dân sự được coi là một trong những nguyên tắc quan trọng nhất của BLDS. Theo nguyên tắc này, khi tham gia vào các quan hệ pháp luật dân sự, các chủ thể luôn bình đẳng với nhau về địa vị pháp lý và bình đẳng với nhau về quyền dân sự và công vụ. Sự khác biệt về các yếu tố dân tộc, giới tính, thành phần xã hội, thành phần kinh tế, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hóa, nghề nghiệp hay bất kỳ lý do nào khác không thể được viện dẫn để làm căn cứ tạo ra sự khác biệt về địa vị pháp lý của các chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự.
Dựa trên nguyên tắc này, các quy phạm chứa đựng trong các quy định cụ thể của BLDS luôn hướng tới mục tiêu bảo đảm sự bình đẳng. Chẳng hạn, khoản 2 Điều 210 BLDS quy định các chủ sở hữu chung hợp nhất có quyền, nghĩa vụ ngang nhau đối với hàng hóa trong tài sản chung; Khoản 2 Điều 213 BLDS quy định, vợ, chồng ngang nhau về sở hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung; Điều 651 khoản 2 BLDS quy định những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.... Tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận là những nguyên tắc thể hiện tính chất đặc trưng của quan hệ pháp luật dân sự so với các quan hệ khác như quan hệ pháp luật hình sự, quan hệ pháp luật hành chính. Các chủ thể tự do lựa chọn bạn đời, tự do lựa chọn quan hệ mà mình sẽ giao kết, tự do thương lượng, xác lập cam kết với nhau khi tham gia các quan hệ dân sự này. Tuy nhiên, quyền tự do của các chủ thể bị giới hạn trong giới hạn của pháp luật và đạo đức xã hội. Cụ thể, nếu thỏa thuận giữa các chủ thể vi phạm điều cấm của pháp luật (là những quy định pháp luật không cho phép chủ thể thực hiện/hoặc không thực hiện một số hành vi nhất định) và/hoặc trái đạo đức xã hội (là những chuẩn mực được xã hội tôn trọng và thừa nhận) thì những thỏa thuận này không được pháp luật bảo vệ và không có hiệu lực pháp lý ràng buộc giữa các bên. Chẳng hạn, Điều 59 Bộ luật Dân sự quy định: “... Người giám hộ không được tặng cho tài sản của người được giám hộ cho người khác…” nên mọi thỏa thuận về việc tặng cho tài sản của người được giám hộ mà người giám hộ xác lập với người thứ ba đều không có hiệu lực pháp luật.
Pháp luật ghi nhận quyền xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các chủ thể trên cơ sở tự do, tự nguyện, giao ước, đồng thuận; do đó, pháp luật cũng quy định các yêu cầu tuân thủ đối với các chủ thể khác và xác lập có hiệu lực thi hành giữa các chủ thể của quan hệ xác lập. Ví dụ, nếu hai người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ đã hoàn toàn tự nguyện thoả thuận về việc mua bán, giá cả, phương thức thanh toán.... về một hàng hoá nào đó được uỷ quyền trao đổi thì sau khi hợp đồng có hiệu lực, các bên có nghĩa vụ tôn trọng cam kết này. Bên vi phạm hợp đồng sẽ phải chịu các hình phạt tương ứng như phạt vi phạm, buộc thi hành, bồi thường thiệt hại, v.v. Văn bản cam kết là cơ sở làm phát sinh hiệu lực pháp luật của quan hệ pháp luật dân sự của các bên tham gia. Các giao ước và thỏa thuận này buộc các bên tham gia phải tuân thủ nội dung đã thỏa thuận, không được vi phạm như sửa đổi, thực hiện không đúng hoặc không thực hiện nội dung đó. Các chủ thể không tham gia các quan hệ pháp luật dân sự này cũng phải chịu trách nhiệm về việc tuân theo các thỏa thuận đã phát sinh hiệu lực pháp luật. Chẳng hạn, Điều 472 Bộ luật Dân sự liên quan đến hợp đồng thuê bất động sản quy định: “Hợp đồng thuê bất động sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho thuê đưa tài sản cho bên thuê sử dụng trong một thời gian nhất định và bên thuê phải trả tiền thuê”. Do đó, trong thời hạn thuê đã thỏa thuận, bên thuê là người có quyền sử dụng hợp pháp đối với tài sản thuê. Nếu bên cho thuê muốn sử dụng tài sản thuê trong thời gian này hoặc nhận tài sản thuê và không cho bên thuê tiếp tục sử dụng tài sản thuê thì phải được sự đồng ý của bên thuê. Trong trường hợp bên thuê, trong thời hạn thuê, bị người khác xâm phạm quyền sử dụng đối với tài sản thuê thì có quyền khởi kiện đòi tài sản hoặc yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Nguyên tắc thiện chí, trung thực, ngay thẳng đòi hỏi các chủ thể xác lập, thực hiện, chấm dứt quan hệ pháp luật dân sự phải có ý thức chung. Do đó, thông tin do các bên cung cấp, hành vi thực hiện, các cam kết, thỏa thuận được thiết lập phải trung thực, không gây hiểu nhầm. Các chủ thể thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự của mình trên tinh thần hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau. Nguyên tắc này kết hợp với nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận để hướng dẫn ý chí, lương tâm của các chủ thể khi tham gia quan hệ pháp luật dân sự. Nguyên tắc thiện chí và trung thực thường thể hiện rõ nhất trong quan hệ giữa nghĩa vụ dân sự và hợp đồng dân sự.
Bản chất của quan hệ pháp luật dân sự thể hiện quyền tự do, tự nguyện của các chủ thể khi tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự. Nội dung của nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận đã thể hiện giới hạn quyền tự do của các chủ thể khi thể hiện các cam kết, thỏa thuận. Nguyên tắc xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự không làm phương hại đến lợi ích quốc gia, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và quyền, lợi ích hợp pháp của người khác, là sự phát triển nội dung hạn chế của quyền tự do khi chủ thể phải xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự của mình không làm phương hại đến lợi ích chung, lợi ích xã hội hợp pháp của chủ thể mình. Nguyên tắc này được thể hiện trong nhiều điều luật của Bộ luật dân sự. Chẳng hạn, Điều 206 BLDS quy định: “Việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng không được gây phương hại hoặc ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác”; hay Điều 250 Bộ luật Dân sự về nghĩa vụ của chủ sở hữu đối với việc thoát nước mưa: “Chủ sở hữu nhà ở, công trình xây dựng khác phải lắp đặt đường ống dẫn nước sao cho nước mưa từ mái nhà, công trình xây dựng này không thể chảy sang nhà liền kề”.
Việc thực hiện trách nhiệm dân sự của các chủ thể trong quan hệ dân sự phải được tôn trọng vì đây là quan hệ mà họ tự do, tự nguyện thoả thuận và bình đẳng xác lập. Trách nhiệm pháp lý là một loại biện pháp pháp lý, ......4. Đánh giá độc giả của bạn
Nội dung cuốn sách “Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự 2015” do TS. Nguyễn Minh Tuấn, giảng viên Bộ môn Luật Dân sự, Khoa Luật Dân sự, Trường Đại học Luật Hà Nội, dưới sự chủ trì của tác giả, đã phân tích, bình luận chi tiết từng điều khoản của Bộ luật Dân sự 2015. Đây là tài liệu tham khảo hữu ích cho bạn đọc trong việc hiểu và vận dụng các quy định của Bộ luật Dân sự 2015 khi có hiệu lực. Cho đến nay, nội dung bình giảng trong sách vẫn có giá trị tham khảo đối với bạn đọc.
Bộ luật Dân sự là bộ luật chung nhất cung cấp khung pháp lý chung cho nhiều lĩnh vực khác, vì vậy việc hiểu rõ các quy định của Bộ luật Dân sự sẽ giúp người đọc hiểu được gốc rễ của mọi vấn đề pháp lý, từ đó phục vụ người đọc trong nhiều hoạt động khác. Cuốn sách đã nhận được nhiều đánh giá tích cực từ độc giả kể từ khi xuất bản cho đến nay.
Mong rằng những chia sẻ trên đây của chúng tôi sẽ là nguồn tài liệu đánh giá chất lượng sách hiệu quả và đáng tin cậy cho bạn đọc. Nếu thấy chia sẻ của chúng tôi hữu ích, hãy lan tỏa đến nhiều người hơn nữa nhé!
Nội dung bài viết:
Bình luận