bắt bị can để tạm giam 2015
1. Cơ sở pháp lý
Căn cứ Điều 113 Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) 2015, việc chấp hành Luật bắt bị can, bị cáo để tạm giam trước khi xét xử được quy định như sau:
“Điều 113. Bắt bị can, bị cáo để tạm giam
- Những người sau đây có quyền ra lệnh hoặc quyết định bắt bị can, bị cáo để tạm giam trước khi xét xử:
a)Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp. Trong trường hợp này, lệnh bắt phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành;
b)Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự các cấp;
c)Chánh án, Phó Chánh án Tòa án nhân dân và Chánh án, Phó Chánh án Tòa án quân sự các cấp; Bảng thử nghiệm.
- Lệnh bắt, quyết định phê chuẩn lệnh bắt hoặc quyết định phải ghi rõ họ, tên, địa chỉ của người bị bắt; căn cứ bắt và nội dung quy định tại khoản 2 Điều 132 của bộ luật này.
Người thi hành lệnh, quyết định phải đọc lệnh, quyết định; giải thích lệnh, quyết định, quyền và nghĩa vụ của người bị bắt và lập biên bản việc bắt; giao lệnh, quyết định cho người bị bắt.
Khi bắt người ở nơi những người này cư trú, phải có đại diện của chính quyền thành phố, quận, huyện và những người khác làm chứng. Khi tiến hành bắt giữ tại nơi những người này làm việc, học tập phải có đại diện của cơ quan, tổ chức nơi những người này làm việc, học tập chứng kiến. Khi bắt người ở nơi khác phải có đại diện chính quyền xã, huyện, tổng nơi bắt người giúp đỡ.
- Không bắt người vào ban đêm, trừ trường hợp phạm tội quả tang hoặc bắt người đang bị truy nã.
2. Khái niệm bắt bị can, bị cáo để tạm giam trước khi xét xử?
Căn cứ để bắt bị can, bị cáo bị tạm giam
Bắt bị can, bị cáo để tạm giam trước khi xét xử là bắt người đã có quyết định truy tố - bị can hoặc người đã có lệnh của Toà án đưa ra xét xử - bị cáo để tạm giam trước khi xét xử. tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động thi hành pháp luật, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành pháp luật. Đối tượng bị bắt tạm giam trước khi xét xử đã bị khởi tố nên người chưa bị khởi tố không bị áp dụng biện pháp này. Tuy nhiên, không phải tất cả bị can, bị cáo đều có thể bị bắt tạm giam trước khi xét xử mà chỉ những người thuộc trường hợp quy định tại Điều 119 BLTTDS mới có thể bị bắt tạm giam trước khi xét xử.
“Điều 119. Tạm giam trước khi xét xử
- Tạm giam trước khi xét xử có thể được áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội phạm đặc biệt nghiêm trọng hoặc tội phạm rất nghiêm trọng.
- Tạm giam có thể được áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội nghiêm trọng hoặc tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù trên 02 năm khi có căn cứ xác định người này thuộc một trong các trường hợp sau đây: : phù hợp:
a)Đã áp dụng các biện pháp ngăn chặn khác nhưng còn vi phạm;
b)Không có nơi cư trú rõ ràng hoặc không rõ lai lịch của bị can;
c)Bỏ trốn và bị bắt theo lệnh khám xét hoặc có dấu hiệu bỏ trốn;
đ)Tiếp tục phạm tội hoặc có dấu hiệu tiếp tục phạm tội;
đ)Có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, lôi kéo người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu gian dối; tiêu hủy, làm xáo trộn chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, người bị hại, người tố giác tội phạm và thân nhân của họ.
- Tạm giam trước khi xét xử có thể được áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội phạm ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù đến 02 năm nếu họ tiếp tục phạm tội hoặc bỏ trốn và bị bắt theo quyết định trưng cầu.
- Đối với bị can, bị cáo là người có thai hoặc đang cho con bú dưới 36 tháng tuổi, già yếu, bệnh nặng nhưng có nơi cư trú, lý lịch rõ ràng thì không tạm giam mà áp dụng biện pháp ngăn chặn. các trường hợp sau:
a)Bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã;
b)Tiếp tục phạm tội;
c)Có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, lôi kéo người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, làm xáo trộn chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, người bị hại, người tố giác tội phạm hoặc thân nhân của họ;
d)Bị can, bị cáo bị khởi tố về các tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ xác định nếu không bị tạm giam thì an ninh quốc gia bị xâm hại. “
3. Chủ thể có thẩm quyền ra lệnh, quyết định tạm giam trước khi xét xử
- Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp. Trong trường hợp này, lệnh bắt phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành;
- Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKSNDTC và Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKS quân sự các cấp;
- Chánh án, Phó Chánh án Tòa án nhân dân và Chánh án, Phó Chánh án Tòa án quân sự các cấp; Bảng thử nghiệm.
4. Thủ tục bắt bị can, bị cáo để tạm giam trước khi xét xử.
- Lệnh bắt hoặc quyết định phê chuẩn lệnh, quyết định phải ghi rõ: họ, tên, địa chỉ của người bị bắt; lý do bị bắt; số, ngày, tháng, năm, nơi ban hành lệnh/quyết định phê duyệt; lý do ban hành lệnh/quyết định phê chuẩn; nội dung của lệnh/quyết định phê duyệt; họ tên, chức vụ, chữ ký của người ra lệnh/quyết định phê duyệt và đóng dấu.
- Trong khi bắt, người thi hành lệnh, quyết định phải đọc lệnh, quyết định; giải thích lệnh, quyết định, giải thích quyền, nghĩa vụ của người bị bắt và phải lập biên bản về việc bắt; giao lệnh, quyết định cho người bị bắt.
Khi bắt người ở nơi những người này cư trú, phải có đại diện của chính quyền thành phố, quận, huyện và những người khác làm chứng. Khi bắt người tại nơi những người này làm việc, học tập phải có sự giúp đỡ của đại diện cơ quan, tổ chức nơi những người này làm việc, học tập. Khi bắt người ngoài nơi ở, nơi làm việc, học tập, họ còn phải có sự giúp đỡ của đại diện chính quyền cấp xã, huyện, huyện nơi tiến hành bắt giữ. Sự có mặt của người làm chứng khi bắt người là cần thiết, không chỉ bảo đảm cho việc bắt người được minh bạch, tuân thủ đầy đủ các quy định của pháp luật mà còn hỗ trợ cho việc thi hành lệnh bắt.
Không được bắt người vào ban đêm, trừ trường hợp phạm tội quả tang hoặc bắt người đang bị truy nã. Quy định này được hiểu là không bắt bị can, bị cáo tạm giam trước khi xét xử trong khoảng thời gian từ 10 giờ ngày hôm trước đến 6 giờ ngày hôm sau nhằm đảm bảo tính minh bạch trong việc bắt người, giữ gìn trật tự chung cho nhân dân và đề nghị ngăn ngừa tội phạm lợi dụng. của thời gian này để làm các hoạt động bất hợp pháp.
5. Những điểm mới của pháp luật được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự 2015
Điều 113 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 được xây dựng trên cơ sở sửa đổi, bổ sung Điều 80 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định về thẩm quyền, thủ tục bắt bị can, bị cáo để tạm giam trước khi xét xử. Thứ nhất, luật bổ sung trách nhiệm của người thi hành lệnh, quyết định là “giao lệnh, quyết định cho người bị bắt”, thể hiện ý nghĩa bảo đảm quyền của người bị bắt.
Thứ hai, luật đã mở rộng phạm vi người làm chứng có thể là bất kỳ ai, đồng thời bổ sung phạm vi địa điểm có thể thực hiện lệnh bắt trong quá trình tố tụng.
Nội dung bài viết:
Bình luận