Theo định nghĩa của Ủy ban Chuẩn mực Kế toán Quốc tế, hợp đồng thuê tài chính là "một loại hợp đồng cho thuê chuyển giao về cơ bản tất cả rủi ro và lợi ích gắn liền với quyền sở hữu tài sản. Quyền sở hữu này cuối cùng có thể được chuyển giao hoặc không.
Theo quy định tại điểm 3 Chuẩn mực kế toán quốc tế số 17 sửa đổi năm 1997 (Paragraph 3, International Accounting Standards IAS 17 sửa đổi 1997), có hiệu lực kể từ ngày 01/01/1999. Chuẩn mực này được xuất bản bởi Ủy ban chuẩn mực kế toán quốc tế.
Rủi ro được đề cập trong định nghĩa này là khả năng hao mòn vô hình do máy móc ngừng hoạt động, lỗi thời kỹ thuật và hậu quả của các điều kiện kinh tế biến động. Lợi ích đề cập ở đây bao gồm khả năng hoạt động có lãi trong suốt thời gian sinh lời của tài sản và khoản chênh lệch do bán tài sản khi kết thúc thời hạn thuê. Chuyển quyền sở hữu (nếu có) là việc chuyển từ bên cho thuê sang bên thuê.
IAS 17 phân biệt thuê tài sản thành hai loại: thuê tài chính và thuê hoạt động. Theo IAS 17, sự phân biệt giữa hai loại hợp đồng thuê tài sản phải dựa trên bản chất của giao dịch chứ không phải hình thức của hợp đồng thuê tài sản. Tiêu chí chính được IAS 17 sử dụng để phân biệt hai loại hợp đồng thuê này là có “sự thay đổi đáng kể về rủi ro và lợi ích của quyền sở hữu tài sản cho thuê”. Nếu giao dịch cho thuê đáp ứng các tiêu chí trên thì đó là giao dịch cho thuê tài chính; nếu không đáp ứng các tiêu chuẩn trên thì cho thuê hoạt động (điểm 5 và 6). Ngoài ra, để tạo thuận lợi cho việc xác định thuê tài chính, IAS 17 đã cung cấp tám ví dụ về tiêu chí mà nếu một trong tám tiêu chí được dự kiến, một giao dịch cho thuê được coi là thuê tài chính (Điểm 8.9) .
Cho thuê tài chính là một hình thức cho thuê bất động sản. Cho thuê bất động sản là một dịch vụ có lịch sử lâu đời. Các nhà khảo cổ học đã tìm thấy những phiến đất sét có khắc chữ ở thành phố Sumer cổ đại (gần Vịnh Ba Tư) ghi lại giao dịch cho thuê bất động sản đầu tiên được thực hiện vào năm 2010 trước Công nguyên. Năm mươi năm sau, vua Babylon lần đầu tiên ban hành luật về tài sản cho thuê trong Bộ luật Hammurabi nổi tiếng. Các nền văn minh cổ đại của Ai Cập, Hy Lạp và La Mã đã chứng kiến nhiều giao dịch cho thuê bất động sản và tài sản cá nhân. Tuy nhiên, mãi đến thế kỷ 18, ở Mỹ mới xuất hiện các hoạt động mang dáng dấp của cho thuê, chủ yếu là tài trợ cho ngành vận tải toa xe lửa, cho đến thế kỷ 19, chủ yếu là tài trợ cho ngành đường sắt.
Trong Thế chiến II, hoạt động cho thuê trở nên khá phổ biến và phải đến những năm 1950, ngành cho thuê mới chính thức ra đời và trở thành một hình thức tài trợ vốn phổ biến cho các nhà đầu tư sản xuất và tiêu dùng (1) thông qua việc mua máy móc, thiết bị, phương tiện và cho thuê đồ gia dụng. Nhu cầu về dịch vụ cho thuê tăng mạnh trong giai đoạn này kéo theo sự gia tăng số lượng các công ty tài chính cung cấp dịch vụ cho thuê, đồng thời buộc các công ty tài chính phải mở rộng phạm vi hoạt động. đầu tư ra công chúng bằng cách phát hành trái phiếu và trái phiếu. Dịch vụ cho thuê tài chính không chỉ cung cấp máy móc, thiết bị sản xuất mà còn đáp ứng nhu cầu về nhà ở của người dân. Ở các nước phát triển, trong nhiều thập kỷ, các dịch vụ do công ty tài chính cung cấp như cho thuê xe, dụng cụ làm vườn và đồ gia dụng rất phổ biến, ở Mỹ giữa những năm 1990 của thế kỷ 20, chưa đến một nửa số xe mới được bán thông qua hình thức cho thuê. .
Quá trình hình thành và phát triển cho thuê đã cho thấy loại hình dịch vụ này là một hình thức tài trợ vốn rất phù hợp với các doanh nghiệp nhỏ có thu nhập thấp và chưa thể khai thác lợi thế của việc cho thuê vốn. Cho thuê tài chính đã trở thành giải pháp giúp một bộ phận lớn doanh nhân giàu ý tưởng kinh doanh nhưng nghèo vốn có thể đáp ứng nhu cầu tài chính để thực hiện các hoạt động thương mại, nâng cao năng lực sản xuất nhằm gia tăng lợi nhuận. Bởi việc cho thuê giúp doanh nghiệp kịp thời hiện đại hóa sản xuất và bắt kịp sự phát triển của công nghệ mới ngay cả khi doanh nghiệp thiếu vốn: giá trị tài sản thuê có thể được tài trợ 100% mà không cần vốn. Thường thì các công ty không cần tài sản thế chấp. Đối với công ty cho thuê, nhờ cho thuê mà một mặt phát triển được hoạt động của mình bằng cách cung cấp vốn trung và dài hạn cho khách hàng; Mặt khác, tăng khả năng vay vốn của khách hàng. Các công ty cho thuê cũng có thể giảm chi phí giao dịch nếu họ có kế hoạch “sử dụng thông minh dòng tiền từ hoạt động cho thuê theo định kỳ trong suốt thời hạn thuê (giả sử người thuê sẽ trả tiền thuê đúng hạn). Rủi ro đối với bên cho thuê trong các giao dịch này cũng được giảm thiểu vì quyền sở hữu tài sản sẽ chỉ được chuyển cho bên thuê khi kết thúc thời hạn thuê. Nói cách khác, tài sản cho thuê là tài sản thế chấp và bên cho thuê có thể thu hồi tài sản bị đảo ngược trong trường hợp người thuê không trả tiền thuê khi phát sinh hoặc không trả được nợ.
Ngày nay, không chỉ các công ty cho thuê tài chính tham gia vào ngành cho thuê tài chính mà còn có các ngân hàng, công ty bảo hiểm, tài chính và các công ty cung cấp máy móc, thiết bị sản xuất và đời sống. Ở Việt Nam, hoạt động cho thuê lần đầu tiên được pháp luật ghi nhận với tên gọi “tín dụng cho thuê” vào năm 1990, khá muộn so với sự xuất hiện của hoạt động này ở nhiều nước trên thế giới. Thuật ngữ “cho thuê mua” nhanh chóng được thay thế bằng thuật ngữ “cho thuê”. Pháp lệnh Ngân hàng, Hợp tác Tín dụng Từ xa và Công ty Tài chính 1990 lần đầu tiên cho phép các ngân hàng và tổ chức tài chính cung cấp dịch vụ tín dụng trả góp (Khoản 3, Mục 32). Trên cơ sở này, ngày 27/05/1995, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Quyết định số 149/QĐ-NH5 để triển khai thực hiện các quy định trên của Pháp lệnh Cho thuê tài chính. Sau đó, ngày 09/10/1995, Chính phủ ban hành Nghị định số 64/CP quy định điều lệ tạm thời về tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài sản tại Việt Nam. Nghị định này chính thức sử dụng thuật ngữ “cho thuê” thay cho thuật ngữ “cho thuê mua”. Thuật ngữ này tiếp tục được sử dụng trong các văn bản pháp luật hiện hành. Trên thực tế, đó chỉ đơn giản là việc sử dụng các thuật ngữ khác nhau cho cùng một hiện tượng: giao dịch trong đó công ty cho thuê bỏ tiền mua máy móc thiết bị cho bên quan tâm thuê, giữ lại quyền sở hữu tài sản cho thuê và trao cho bên thuê quyền quyết định: mua lại tài sản, tiếp tục thuê tài sản hoặc trả lại tài sản cho bên cho thuê khi hết thời hạn thuê. Việc sử dụng các thuật ngữ khác nhau ngụ ý rằng hiện tượng tương tự như “ở trên” không chỉ xảy ra ở Việt Nam mà còn ở nhiều nơi trên thế giới. Dường như cũng không có sự thống nhất trong việc sử dụng thuật ngữ này giữa các quốc gia nói tiếng Anh. Ví dụ, người Anh sử dụng thuật ngữ “tín dụng trả góp”, trong khi người Mỹ sử dụng thuật ngữ “cho thuê”; trong khi người Úc sử dụng thuật ngữ “cho thuê tài chính” khi đề cập đến các giao dịch cho thuê trong đó bên thuê là cá nhân và sử dụng thuật ngữ “cho thuê tài chính” để chỉ các giao dịch cho thuê trong đó bên thuê là công ty.
Luật Các Tổ chức Tín dụng năm 1997 sau khi được ban hành để thay thế Pháp lệnh Ngân hàng, Tổ chức Tín dụng và Công ty Tài chính đã quy định hoạt động này tại Mục 11 của Mục 20. Sau đó, Nghị định của Chính phủ số 16/2001/NĐ-CP ngày 02 tháng 5 năm 2001 về tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính và Nghị định số 65/2005/NĐ-CP ngày 19 tháng 5 năm 2005 (được sửa đổi bổ sung bởi Nghị định số 16/2001/NĐ-CP) quy định khá chi tiết về loại giao dịch này. Định nghĩa này được kế thừa nhưng được cô đọng trong Mục 113 của Đạo luật các tổ chức tín dụng 2010, trong đó nêu rõ:
“Hoạt động cho thuê là việc cấp tín dụng trung và dài hạn trên cơ sở hợp đồng cho thuê và phải đáp ứng một trong các điều kiện sau:
1. Hết thời hạn thuê theo hợp đồng, bên thuê được chuyển quyền sở hữu tài sản thuê hoặc tiếp tục thuê theo thoả thuận của hai bên;
2. Khi kết thúc thời hạn thuê theo hợp đồng, bên thuê có quyền mua lại bằng cách trả trước tài sản thuê với giá đích danh thấp hơn giá trị thực tế của tài sản thuê tại thời điểm mua;
3. Thời hạn thuê tài sản ít nhất phải bằng 60% thời gian phải trích khấu hao tài sản thuê đó;
4. Tổng số tiền thuê tài sản ghi trong hợp đồng thuê tài sản ít nhất phải bằng giá trị tài sản này tại thời điểm ký kết hợp đồng.
Tóm lại, cho thuê là việc cấp tín dụng trung hoặc dài hạn thông qua việc cho thuê máy móc, thiết bị và các động sản khác.
Như vậy, cho thuê vừa mang tính chất của hoạt động tín dụng, vừa mang tính chất của hoạt động cho thuê tài sản thông thường. Bản chất tín dụng của việc cho thuê thể hiện ở việc tài trợ vốn cần thiết để giúp các công ty thiếu vốn đủ để có thể sử dụng máy móc thiết bị cần thiết phục vụ nhu cầu kinh doanh. Quyền sở hữu đối với hợp đồng thuê tài sản V của giao dịch này thể hiện ở chỗ bên thuê chỉ có quyền khai thác giá trị sử dụng của tài sản chứ không có quyền sở hữu đất đai. Chính sự tách biệt giữa quyền sử dụng và quyền sở hữu tài sản thuê trong các giao dịch này cho thấy thuê tài chính có những đặc điểm nhất định giống với thuê tài sản thông thường.
Về bản chất, trong giao dịch cho thuê, bên cho thuê cung cấp vốn cho bên thuê bằng cách bỏ tiền mua tài sản mà bên thuê yêu cầu. Công ty cho thuê mua lại quyền khai thác giá trị sử dụng của tài sản này cho bên thuê nhưng vẫn giữ quyền sở hữu để đổi lấy tài sản cho thuê. Ở đây, bên thuê được hưởng quyền sử dụng tài sản thuê giống như bên vay nhận một khoản tín dụng bằng giá trị tài sản và còn phải trả nợ gốc (tiền đầu tư mua tài sản; chi phí phát sinh cho việc mua tài sản) . ) và tiền lãi cho khoản vay này. Tuy nhiên, khác với quan hệ tín dụng thông thường, trong quan hệ cho thuê bên thuê không nhận tiền mà nhận tài sản thuê. Thoạt nhìn, người thuê các giao dịch này có vẻ như là tài sản hữu hình, nhưng về bản chất, hợp đồng thuê tài chính là tiền thuê vốn nhằm mục đích trang trải chi phí đầu tư vào việc mua tài sản cho thuê. Theo nghĩa này, tiền thuê thường được xác định theo cách bù đắp giá trị của tài sản tại thời điểm ký kết hợp đồng và bao gồm tiền lãi trên số tiền thuê mà người thuê phải trả. Ở Việt Nam, pháp luật quy định: tổng số tiền thuê tài sản ghi trong hợp đồng cho thuê ít nhất phải bằng giá trị của tài sản này tại thời điểm ký kết hợp đồng (khoản 4 điều 113 luật tổ chức cho thuê). tín dụng năm 2010). Đây là số tiền tối thiểu mà hai bên có thể thỏa thuận, tức là các bên chỉ có thể thỏa thuận về mức giá thuê cao hơn mức tối thiểu chứ không thể thấp hơn mức tối thiểu theo luật định. Các bên có thể thoả thuận hợp đồng thuê tài chính bao gồm tiền gốc được xác định trên cơ sở giá mua tài sản thuê tài chính, các chi phí pháp lý liên quan đến việc mua tài sản và tiền lãi cho thuê được tính theo quy định của Hợp đồng thuê tài chính. quy định. luật.
Ngay cả khi giá cho thuê bằng mức tối thiểu nói trên thì bên cho thuê vẫn có lãi vì khi kết thúc thời hạn thuê, tài sản thuê vẫn thuộc về bên cho thuê và bên cho thuê có quyền tiếp tục thuê hoặc chuyển nhượng tài sản. . . cho bên thuê với giá thấp hơn giá trị thực tế của tài sản.
Trong hoạt động cho thuê, các hoạt động bổ sung như đặt cọc, thế chấp hoặc bảo lãnh đối với vốn tài trợ thường không bắt buộc. Tuy nhiên, thuê tài chính vẫn được coi là giao dịch bảo đảm và tài sản bảo đảm là tài sản thuê. Lý do là, một mặt, quyền sở hữu tài sản này vẫn thuộc về bên cho thuê, ngay cả khi tổng thu nhập của bên cho thuê từ tài sản cho thuê đủ để thu hồi vốn đã bỏ ra mua tài sản và có thể bao gồm cả tiền lãi. .tùy từng trường hợp. thỏa thuận của các bên trong hợp đồng cho thuê. Mặt khác, tất cả các giao dịch cho thuê phải được ghi lại trong trung tâm ghi chép hoạt động an toàn. Vì vậy, ngay cả khi bên thuê vi phạm pháp luật dẫn đến việc bị cơ quan có thẩm quyền thu giữ tài sản thuê thì tài sản đó vẫn được trả lại cho bên cho thuê.
Nội dung bài viết:
Bình luận