1. Xác định không đúng tư cách tố tụng của đương sự
Đối với hợp đồng tín dụng( HĐTD) do ki nhánh, phòng giao dịch của các tổ chức tín dụng( TCTD) xác lập, thực hiện với khách hàng, nhiều trường hợp Tòa án vẫn xác định ki nhánh, phòng giao dịch là đương sự trong vụ án. Trường hợp khác, đối với HĐTD do doanh nghiệp tư nhân vay vốn, khi tham gia tố tụng, có Tòa án vẫn xác định tên doanh nghiệp tư nhân hoặc xác định giám đốc doanh nghiệp do chủ doanh nghiệp tư nhân thuê để quản lý doanh nghiệp là đương sự.
Ví dụ, vụ án “ Tranh chấp hợp đồng tín dụng ” do TAND tỉnh TN giải quyết tại Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 01/ 2012/ QĐST- KDTM ngày04/5/2012 xác định nguyên đơn là Ngân hàng N- ki nhánh thành phố TN với bị đơn là Doanh nghiệp tư nhân sửa chữa ôtô HT( do ông Đào NgọcX. là chủ doanh nghiệp).

Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng
Trong trường hợp nêu trên, phải xác định pháp nhân là đương sự căn cứ khoản 6 Điều 84 Bộ luật Dân sự( BLDS) năm 2015 “ Pháp nhân có quyền, nghĩa vụ dân sự phát sinh từ giao dịch dân sự do ki nhánh, văn phòng đại diện xác lập, thực hiện ”, và phải xác định ông/ bà. chủ doanh nghiệp tư nhân. tham gia tố tụng theo quy định tại khoản 1 Điều 183 Luật Doanh nghiệp năm 2014 “ Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp ”( tương ứng khoản 1 Điều 188 Luật Doanh nghiệp năm 2020).
2. Bỏ sót vợ hoặc chồng tham gia tố tụng đối với trường hợp tài sản thế chấp đứng tên một người trong thời kỳ hôn nhân
Nhiều trường hợp Tòa án chỉ căn cứ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất( GCNQSDĐ) và tài sản khác gắn liền với đất đứng tên một người vợ hoặc chồng thế chấp, nên chỉ đưa người này tham gia tố tụng mà không đưa người còn lại vào tham gia tố tụng dẫn đến những thiếu sót, ảnh hưởng đến quyền lợi của họ, vì liên quan nguồn gốc, công sức đóng góp hình thành tài sản, những thỏa thuận về tài sản riêng của vợ hoặc chồng. Quá trình giải quyết vụ án không phát hiện thiếu sót này dẫn đến nhiều vụ án bị hủy ở cấp giám đốc thẩm.
Ví dụ, vụ án “ Tranh chấp hợp đồng tín dụng ” giữa nguyên đơn Ngân hàng S với bị đơn Công ty Đ, người liên quan là bà Nguyễn ThịC., Nguyễn ThịT. Tại Bản án phúc thẩm số 10/ 2015/ KDTM- PT ngày20/8/2015 của TAND Cấp cao quyết định giữ nguyên bản án sơ thẩm buộc đơn phải thanh toán cho nguyên đơn số tiền24.760.000.000 đồng, nếu không thanh toán được xử lý tài sản thế chấp, trong đó có nhà đất tại 477 Nguyễn Văn Cừ.
Trong vụ án này, tài sản thế chấp( TSTC) là nhà đất tại 477 Nguyễn Văn Cừ, thành phố H, có nguồn gốc năm 1995 bàC. mua có hợp đồng công chứng, nhưng chưa sang tên. Ngày16/02/2001, bàC. cùng chồng là ông Nguyễn Thiện C1 bán nhà đất 477 Nguyễn Văn Cừ này cho ông Nguyễn Văn Th. với giá1.200.000.000 đồng. Nhưng năm 2004, bàC. tự làm thủ tục kê khai và được cấp GCNQSDĐ và thế chấp Ngân hàng S cho Công ty Đ vay tiền. Vụ án có liên quan đến ông C1, nhưng Tòa án chưa thu thập chứng cứ làm rõ quan hệ hôn nhân giữa ông C1 và bàC. và quyền lợi của ông C1 đối với nhà 477 Nguyễn Văn Cừ; đồng thời hành vi dùng 1 tài sản thực hiện nhiều giao dịch là có dấu hiệu của tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, nhưng Tòa án chưa làm rõ việc bà C có hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản hay không để xử lý hình sự, là không đúng.
Trường hợp tài sản đứng tên một người thời kỳ hôn nhân không chỉ xem xét nội soil GCNQSDĐ, mà còn phải căn cứ Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về tài sản chung vợ chồng, đặc biệt có trường hợp phải áp dụng Điều 15 Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959( quy định “ Vợ và chồng đều có quyền sở hữu, hưởng thụ và sử dụng ngang nhau đối với tài sản có trước và sau khi cưới ”) và những quy định có liên quan để xem xét kỹ nguồn gốc hình thành tài sản, tài sản nhận chuyển nhượng hay được tặng cho, được thừa kế, nếu đứng tên riêng thì xem xét những thỏa thuận về tài sản riêng của vợ hoặc chồng; những tài liệu, chứng cứ kèm theo trường hợp cần thiết phải xác minh hồ sơ cấp GCNQSDĐ và tài sản gắn liền với đất để xem xét về nguồn gốc hình thành tài sản. Phải xem xét đưa chồng hoặc vợ( người không đứng tên trong GCNQSDĐ) vào tham gia tố tụng với tư cách đương sự để giải quyết triệt để, toàn diện vụ án.
3. Bỏ sót thành viên hộ gia đình có quyền đối với tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất đứng tên “ hộ gia đình ”
Có trường hợp Tòa án bỏ sót thành viên hộ gia đình tham gia tố tụng, dẫn đến không ít bản án, quyết định bị hủy sửa.
Ví dụ Vụ án “ Tranh chấp hợp đồng tín dụng ” giữa nguyên đơn là Ngân hàng X với bị đơn là Công ty HQ. Theo GCNQSDĐ mà vợ chồng anh Cao HuyQ. và Nguyễn ThịT. thế chấp năm 2010 có tên sử dụng đất là hộ Cao HuyQ. hoặc là hộ Cao HuyQ., Nguyễn ThịT. để bảo đảm khoản vay cho Công ty HQ. Theo các Sổ hộ khẩu thể hiện ông Cao HuyH.( cha ôngQ.) ở cùng vợ chồng anhQ. cho đến năm 2012 mới tách hộ. Trong khi đó, các GCNQSDĐ đều được cấp năm 2004 và 2006. Tòa án không đưa thành viên hộ gia đình( ôngH.) tham gia tố tụng là thiếu sót
Đối với những trường hợp này, áp dụng khoản 29 Điều 3 Luật Đất đai năm 2013 quy định “ Hộ gia đình sử dụng đất là những người có quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình, đang sống chung và có quyền sử dụng đất chung tại thời điểm được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất; nhận chuyển quyền sử dụng đất ” và Điều 212 BLDS năm 2015 quy định về sở hữu chung của các thành viên gia đình, có những thành viên nào đủ từ 15 tuổi trở lên( Điều 109 BLDS năm 2005), người thành niên( Điều 212 BLDS năm 2015) để kiểm sát việc Tòa án xác định đầy đủ các thành viên có quyền về tài sản vào tham gia tố tụng nhằm xem xét, xử lý triệt để vụ án. Để xác định có bao nhiêu người trong hộ gia đình thực sự có quyền về tài sản, cần lưu ý không chỉ căn cứ vào nội soil GCNQSDĐ, sổ hộ khẩu, mà cần phải xác định rõ ai mới là thành viên của hộ thực sự có quyền về tài sản
4. Đình chỉ giải quyết vụ án do doanh nghiệp chấm dứt hoạt động, bị giải thể không đúng
Đối với doanh nghiệp chấm dứt hoạt động, bị giải thể, nhiều trường hợp, Tòa án đình chỉ giải quyết vì cho rằng không đủ điều kiện thụ lý, giải quyết là không đúng, vì trường hợp này phải xác định cá nhân, tổ chức là thành viên của tổ chức đó hoặc đại diện của họ tham gia tố tụng để tiếp tục giải quyết vụ án theo thủ tục chung.
Ví dụ, vụ án “ Tranh chấp hợp đồng tín dụng ” giữa nguyên đơn là Ngân hàng X với bị đơn là ông Bạch NgọcT., người liên quan là Công tyT. Trước đây, Công tyT. nợ của Ngân hàng X số tiền gốc USD nên bị khởi kiện. Quá trình giải quyết, TAND thành phố H xác định Ngày09/10/2000, Công ty T bị thu hồi Giấy chứng nhận Đăng ký kinh doanh nên đã ra Quyết định số 13/ 2016/ QĐST- KDTM đình chỉ giải quyết vụ án với lý do chưa đủ điều kiện khởi kiện, Tòa án cấp phúc thẩm cũng giữ nguyên quyết định đình chỉ giải quyết vụ án là không đúng, vì Công ty T đã giải thể nên Ngân hàng X có quyền khởi kiện các thành viên của Công ty T trả nợ để tiếp tục giải quyết vụ án.
Trong trường hợp nêu trên, căn cứ quy định tại điểm a, khoản 2 Điều 74 Bộ luật Tố tụng dân sự( BLTTDS) năm 2015 “ Trường hợp tổ chức phải chấm dứt hoạt động, bị giải thể là công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh thì cá nhân, tổ chức là thành viên của tổ chức đó hoặc đại diện của họ tham gia tố tụng ”, để yêu cầu Tòa án tiếp tục giải quyết vụ án.
5. Đình chỉ giải quyết vụ án hoặc trả lại đơn khởi kiện do bị đơn thay đổi địa chỉ không đúng
Thực tế, không ít trường hợp sau khi vay được tài sản, bị đơn có dấu hiệu trốn nợ như thay đổi địa chỉ trụ sở, chi nhánh; hoặc doanh nghiệp ngừng hoạt động nhưng không tiến hành thủ tục giải thể, không biết địa chỉ của người quản lý, đại diện theo pháp luật. Khi khởi kiện, TCTD ghi đúng địa chỉ bị đơn khi ký HĐTD, nhưng do không tống đạt cho đương sự được( do thay đổi địa chỉ), Tòa án đình chỉ giải quyết vụ án hoặc trả lại đơn khởi kiện là không đúng quy định pháp luật.
BLTTDS năm 2015 và Nghị quyết 04/ 2017/ NQ- HĐTP ngày05/5/2017 của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao hướng dẫn một số quy định về trả lại đơn khởi kiện, quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án tại khoản 1 và khoản 3 Điều 192 BLTTDS( Nghị quyết 04/ 2017/ NQ- HĐTP) quy định cụ thể hơn về việc giải quyết trong trường hợp bị đơn, người liên quan vắng mặt tại nơi cư trú. Tại điểm e khoản 1 Điều 192 BLTTDS và khoản 2 Điều 5 Nghị quyết số 04/ 2017/ NQ- HĐTP quy định “ Người khởi kiện đã cung cấp địa chỉ “ nơi cư trú, làm việc, hoặc nơi có trụ sở ” của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cho Tòa án theo đúng quy định của pháp luật và hướng dẫn tại khoản 1 Điều này tại thời điểm nộp đơn khởi kiện mà được cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cấp, xác nhận hoặc có căn cứ khác chứng minh rằng đó là địa chỉ của người bị kiện, người có quyền nghĩa vụ quan thì được coi là đã ghi đúng địa chỉ của người bị kiện, người có quyền nghĩa vụ liên quan ”.
Nội dung bài viết:
Bình luận