Vấn đề tranh chấp chia tài sản chung khi ly hôn đang ngày càng phổ biến trong xã hội hiện nay. Việc giải quyết các tranh chấp này một cách công bằng, hợp lý là vô cùng quan trọng, góp phần bảo vệ quyền lợi của các bên liên quan, đặc biệt là con cái chưa thành niên. Hãy cùng Công ty Luật ACC tìm hiểu bài viết Một số bản án tranh chấp chia tài sản chung khi ly hôn

Một số bản án tranh chấp chia tài sản chung khi ly hôn
1. Bản án số: 47/2023/HNGĐ-PT ngày 26/10/2023
Tên bản án: Nguyễn Quốc A “tranh chấp ly hôn, nuôi con chung, tài sản chung, nợ chung” bà Nguyễn Thị Thanh B (02.11.2023)
Quan hệ pháp luật:Tranh chấp về chia tài sản khi ly hôn
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Tòa án xét xử:TAND tỉnh Long An
Thông tin về vụ/việc:
Nguyên đơn: ông Nguyễn Quốc A
Bị đơn: bà Nguyễn Thị Thanh B
Ông và bà Nguyễn Thị Thanh B chung sống và đăng ký kết hôn với nhau vào tháng 01 năm 2019 tại Ủy ban nhân dân xã X, huyện Y, tỉnh Tiền Giang chung sống hạnh phúc khoảng 1 năm thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do tính tình không hợp nhau về tư tưởng, quản lý tiền bạc. Vợ chồng ông không còn chung sống khoảng tháng 6 năm 2020. Ông Nguyễn Quốc A cho rằng không còn hạnh phúc, không thể kéo dài hôn nhân nên yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với bà Nguyễn Thị Thanh B. Về con chung: Hôn nhân giữa ông và bà Nguyễn Thị Thanh B có một người con chung có tên là Nguyễn Ngọc Bảo F, sinh ngày 05 tháng 3 năm 2020, hiện con do bà B đang nuôi dưỡng. Ông yêu cầu bà Nguyễn Thị Thanh B được quyền trực tiếp nuôi dưỡng người con chung có tên nêu trên, ông cấp dưỡng cho bà B nuôi con chung, mỗi tháng 1.000.000đ (một triệu đồng), thời gian bắt đầu cấp dưỡng tính từ ngày Tòa án giải quyết xong vụ án nhưng tại phiên tòa ông A đồng ý thời gian bắt đầu cấp dưỡng là tháng 12 năm 2020 đến khi người con chung đủ mười tám tuổi. Về tài sản chung: Khi khởi kiện thì ông A không yêu cầu Tòa án giải quyết nhưng sau đó ông A yêu cầu chia tài sản chung gồm: 30 chỉ vàng 24K; 1,6 chỉ vàng 18K; một đôi bông hột xoàn trị giá 39.000.000đ (ba mươi chín triệu đồng), tổng cộng số tiền là 207.400.000 đồng (hai trăm lẻ bảy triệu bốn trăm nghìn đồng) đến phiên hòa giải ngày 30 tháng 8 năm 2022, ông A đã rút yêu cầu này. Về nợ chung: Ông A xác định ông và bà B nợ ông Nguyễn Hồng D với số tiền là 300.000.000 đồng (ba trăm triệu đồng), vay khoảng tháng 5 năm 2019, vay tiền để mướn trồng thanh long. Ông yêu cầu mỗi người trả 150.000.000 đồng (một trăm năm mươi triệu đồng). Ông giữ nguyên ý kiến của ông về số tiền cấp dưỡng và thời gian cấp dưỡng, về yêu cầu của bà B đối với thửa đất 424, ông xác định nhận chuyển quyền sử dụng đất đối với thửa đất 424 là từ bà Dương Bội Ngọc trước khi kết hôn, ông đã đặt cọc cho bà Nguyễn Thị Thạnh là mẹ ruột của bà Dương Bội Ngọc, với số tiền là 100.000.000 đồng (một trăm triệu đồng), có làm biên nhận bằng giấy viết tay hiện ông đang quản lý nên quyền sử dụng đất thửa đất 424 là tài sản riêng của ông, tiền bán thanh long ông đã chi trả chi phí trồng thanh long. Ông đồng ý trả nợ cho ông D.
2. Bản án về tranh chấp chia tài sản sau khi ly hôn số 06/2022/HNGĐ-PT
Tên bản án: Bản án về tranh chấp chia tài sản sau khi ly hôn số 06/2022/HNGĐ-PT
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp về chia tài sản sau khi ly hôn
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Loại vụ/việc:Hôn nhân và gia đình
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Bến Tre
Thông tin về vụ/việc:
Nguyên đơn: Bà Dương Thị Kim T,
Bị đơn: Ông Nguyễn Thanh S
Bà T và ông S đăng ký kết hôn năm 1990 tại UBND xã AP, huyện CT, tỉnh BT. Năm 2018 vợ chồng bà do mâu thuẫn nên thuận tình ly hôn. Tại Quyết định công nhận thuận tình ly hôn số: 157/2018/QĐST-HNGĐ ngày 07/5/2018 về phần tài sản chung vợ chồng tự thỏa thuận nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Sau khi ly hôn, do không thỏa thuận được về phần tài sản chung nên năm 2020 bà làm đơn khởi kiện gửi Tòa án yêu cầu chia tài sản chung sau khi ly hôn. Tài sản mà bà yêu cầu là thửa đất 42 và 170 tờ bản đồ số 08 do ông S đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tọa lạc tại thị trấn Châu Thành, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre. Cụ thể bà yêu cầu nhận thửa đất 42, tờ bản đồ số 08 và giao cho ông S thửa đất 170 tờ bản đồ số 08. Tại Bản án hôn nhân và gia đình sơ thẩm số 15/2022/HNGĐ-ST ngày 22 tháng 02 năm 2022, Tòa án nhân dân huyện Châu Thành quyết định: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Dương Thị Kim T về việc chia tài sản sau khi ly hôn. Ông Nguyễn Thanh S được trọn quyền sử dụng phần đất thửa 42 tờ bản đồ số 08, tọa lạc tại thi trấn Châu Thành, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre do ông Nguyễn Thanh S đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Buộc ông Nguyễn Thanh S có nghĩa vụ tiếp tục giao cho bà Dương Thị Kim T số tiền 400.000.000 đồng (Bốn trăm triệu đồng). Ngày 08 tháng 3 năm 2022, bị đơn ông Nguyễn Thanh S kháng cáo. Tại đơn đề nghị xét xử vắng mặt đề ngày 11/5/2022, bà Dương Thị Kim T không đồng ý nội dung kháng cáo của ông Nguyễn Thanh S, yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giữ nguyên bản án sơ thẩm. Cuối cùng Toà án cấp phúc thẩm quyết định Không chấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn Thanh S. Giữ nguyên Bản án hôn nhân và gia đình sơ thẩm số 15/2022/HNGĐ-ST ngày 22 tháng 02 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre.
3. Bản án số: 14/2023/DS-PT ngày 22/03/2023
Tên bản án: Mai Tan L "ly hôn, yêu cầu chia tài sản chung khi ly hôn, yêu cầu xác định tài sản riêng khi ly hôn" Nguyễn Thị T (21.04.2023)
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp về chia tài sản chung
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Loại vụ/việc: Dân sự
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Long An
Thông tin về vụ/việc:
Nguyên đơn: Ông Mai Tấn L,
Bị đơn: Bà Nguyễn Thị T
Ông L và bà T chung sống với nhau như vợ chồng từ năm 1994, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn H, huyện Đ, tỉnh Long An. Năm 2010 bắt đầu nảy sinh mâu thuẫn nên ông L khởi kiện yêu cầu ly hôn bà T. Về con chung: Quá trình chung sống có hai con chung tên Mai Vũ H, sinh năm 1996 và Mai Trung H, sinh năm 2003. Các con chung hiện nay đều đã trưởng thành nên ông L không có yêu cầu gì. Về tài sản chung: Ông L trình bày trong quá trình hôn nhân với bà T, ông có khối tài sản riêng là phần đất thuộc các thửa 51, 55 và 52, tờ bản đồ số 7-2-4(nay là các thửa 34, 49 và 33, tờ bản đồ số 19) tọa lạc tại ấp S, thị trấn H, huyện Đ, tỉnh Long An và đều do ông Mai Tấn L đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Nguồn gốc phần đất này là của cha mẹ ông L là cụ Mai Văn M và cụ Nguyễn Thị C (chết năm 2012) tặng cho riêng ông L nên ông L yêu cầu Tòa án công nhận phần đất nêu trên là tài sản riêng của ông L. Về nợ chung: Không có. Tại Bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số 295/2022/HNGĐ-ST ngày 23 tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Đ đã tuyên xử Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Mai Tấn L đối với bà Nguyễn Thị T về việc “Ly hôn, yêu cầu xác định tài sản riêng trong thời kỳ hôn nhân”, cụ thể như sau: Về quan hệ hôn nhân: Ghi nhận ông Mai Tấn L và bà Nguyễn Thị T thuận tình ly hôn. Về tài sản chung: Xác định khối tài sản gồm phần đất thuộc các thửa 51, 52, 55, TBĐ số 7-2-4, số thửa mới lần lượt là 34, 49,33, TBĐ số 19, tọa lạc tại ấp S, thị trấn H, huyện Đ, tỉnh Long An là tài sản riêng của ông Mai Tấn L. Đình chỉ một phần yêu cầu phản tố của bà Nguyễn Thị T đối với ông Mai Tấn L về việc chia tài sản chung làsố tiền 2.200.000.000 đồng và gia súc gồm hai con bò lớn và ba con bò con. Đương sự có quyền khởi kiện lại vụ án theo quy định tại Điều 218 Bộ luật Tố tụng dân sự. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bà Nguyễn Thị T về việc “Yêu cầu chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân” với ông Mai Tấn L. Chia cho bà Nguyễn Thị T phần công sức đóng góp tương ứng. Ông Mai Tấn L có nghĩa vụ giao cho bà Nguyễn Thị T số tiền 4.454.436.000 đồng. Sau khi xét xử sơ thẩm, ông L làm đơn kháng cáo yêu cầu sửa một phần bản án sơ thẩm. Cuối cùng toà án cấp phúc thẩm quyết định: Không chấp nhận kháng cáo của ông Mai Tấn L. Sửa một phần Bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số 295/2022/HNGĐ-ST ngày 23 tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Đ. Chia cho bà Nguyễn Thị T phần công sức đóng góp tương ứng 30% giá trị tài sản theo Chứng thư thẩm định giá ngày 06/3/2023 của Công ty Cổ phần Thông tin và Thẩm định giá MN. Ông Mai Tấn L có nghĩa vụ giao cho bà Nguyễn Thị Tsố tiền 6.506.823.300 đồng sau khi bản án có hiệu L pháp luật.
4. Bản án Hôn nhân và gia đình phúc thẩm số 25/2022/HNGĐ-PT ngày 19 tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương
Tên bản án: Bản án Hôn nhân và gia đình phúc thẩm số 25/2022/HNGĐ-PT ngày 19 tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương.
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp về chia tài sản chung sau khi ly hôn
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Toà án xét xử: TAND tỉnh Bình Dương
Thông tin vụ/việc: Bà Phạm Thị Ngọc Th và ông Trần Trọng N là vợ chồng chung sống với nhau từ năm 2000 nhưng đã ly hôn theo Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự số 74/2021/QĐSTHNGĐ ngày 05/02/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương. Quá trình chung sống hai ông, bà có 02 con chung là Trần Ngọc N, sinh năm 2000 và Trần Thư Th, sinh năm 2006. Về tài sản trong quá trình chung sống hai ông, bà có tài sản chung gồm có: quyền sử dụng đất có diện tích 89,0m2 thuộc thửa số 2857, tờ bản đồ số 3DH.1 tọa lạc khu phố Tây B, phường Đông Hòa, thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương, trên đất gắn liền là 01 căn nhà 02 tầng có diện tích sàn 75,1m2. Vì lý do, khi ly hôn chưa chia tài sản chung nên nay bà Th khởi kiện ông N yêu cầu Tòa án có thẩm quyền chia tài sản chung sau khi ly hôn với ông N. Bà Th yêu cầu chia đôi tài sản chung và được hưởng ½ giá trị tài sản, ông N là người nhận đất có trách nhiệm thanh toán cho bà Th ½ giá trị tài sản. Tại Bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số 74/2022/HNGĐ-ST ngày 02/06/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương đã tuyên xử: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn bà Phạm Thị Ngọc Th về việc tranh chấp chia tài sản chung sau ly hôn với bị đơn ông Trần Trọng N. Ông Trần Trọng N được quyền sử dụng đất có diện tích 89,0m2, thuộc thửa đất số 2857, tờ bản đồ số 3DH.1 tọa lạc khu phố Tây B, phường Đông Hòa, thị xã Dĩ An (nay là thành phố Dĩ An), tỉnh Bình Dương theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BQ024502, số vào sổ cấp giấy chứng nhận số CH07583 do Uỷ ban nhân dân thị xã Dĩ An (nay là thành phố Dĩ An) cấp ngày 17/5/2014 cấp cho ông Trần Trọng N, bà Phạm Thị Ngọc Th và 01 căn nhà 02 tầng có diện tích sàn 75,1m2 (có bản vẽ kèm theo). Ông Trần Trọng N có trách nhiệm thanh toán cho bà Phạm Thị Ngọc Th 35% giá trị tài sản với tổng số tiền là 1.229.728.600. Ngày 14/6/2022, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An có Quyết định kháng nghị số 03/QĐ-VKS-HNGĐ kháng nghị một phần Bản án sơ thẩm theo hướng giảm tỉ lệ chia tài sản cho N đơn.
Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm tuyên xử:
- Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với Quyết định kháng nghị số 03/QĐVKS-HNGĐ ngày 14/6/2022 của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương.
- Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn ông Trần Trọng N: Giữ N Bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số 74/2022/HNGĐ-ST ngày 02/6/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương.
Hy vọng qua bài viết, Công ty Luật ACC đã giúp quý khách hàng hiểu rõ hơn về Một số bản án tranh chấp chia tài sản chung khi ly hôn. Đừng ngần ngại hãy liên hệ với Công ty Luật ACC nếu quý khách hàng có bất kỳ thắc mắc gì cần tư vấn giải quyết.
Nội dung bài viết:
Bình luận