Luật Hôn nhân và gia đình 1986 21-LCT/HĐNN7

Luật Hôn nhân và Gia đình 1986, số 21-LCT/HĐNN7, đóng vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh các quan hệ hôn nhân và gia đình tại Việt Nam từ những năm đầu của thời kỳ đổi mới. Được ban hành bởi Hội đồng Nhà nước Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, luật này đã đưa ra các nguyên tắc cơ bản và quy định chi tiết về hôn nhân, gia đình, quản lý tài sản, quyền và nghĩa vụ của các thành viên trong gia đình. Hãy cùng Công ty Luật ACC tìm hiểu chi tiết quy định của Luật Hôn nhân và gia đình 1986 21-LCT/HĐNN7.

Luật Hôn nhân và gia đình 1986 21-LCT/HĐNN7

Luật Hôn nhân và gia đình 1986 21-LCT/HĐNN7

1. Luật Hôn nhân và gia đình 1986 21-LCT/HĐNN7 có hiệu lực từ ngày nào?

Luật Hôn nhân và Gia đình 1986 số 21-LCT/HĐNN7, có hiệu lực chính thức từ ngày 01 tháng 01 năm 1987. Được ban hành bởi Hội đồng Nhà nước của Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, luật này đặt ra cơ sở pháp lý quan trọng và cụ thể cho các mối quan hệ hôn nhân và gia đình tại Việt Nam từ những năm đầu của giai đoạn đổi mới. Luật Hôn nhân và Gia đình 1986 cung cấp khung pháp lý về hôn nhân, quản lý tài sản, quyền và nghĩa vụ của các thành viên gia đình, phản ánh nhu cầu và thực tiễn xã hội vào thời điểm đó.

>> Tham khảo thêm thông tin liên quan Sự phát triển của luật hôn nhân gia đình qua các thời kỳ

2. Luật Hôn nhân và gia đình 1986 21-LCT/HĐNN7

Chương 1:

NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG

Điều 1

Nhà nước bảo đảm thực sự chế độ hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng, nhằm xây dựng gia đình dân chủ, hoà thuận, hạnh phúc, bền vững.

Hôn nhân giữa công dân Việt Nam thuộc các dân tộc các tôn giáo khác nhau, giữa người theo tôn giáo với người không theo tôn giáo được tôn trọng và bảo vệ.

Điều 2

Vợ chồng có nghĩa vụ thực hiện sinh đẻ có kế hoạch.

Cha mẹ có nghĩa vụ nuôi dạy con thành những công dân có ích cho xã hội.

Con có nghĩa vụ kính trọng, chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ.

Điều 3

Nhà nước và xã hội bảo vệ bà mẹ và trẻ em, giúp đỡ các bà mẹ thực hiện tốt chức năng cao quý của người mẹ.

Điều 4

Cấm tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, yêu sách của cải trong việc cưới hỏi ; cấm cưỡng ép ly hôn.

Cấm người đang có vợ, có chồng kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác.

Cấm ngược đãi, hành hạ cha, mẹ, vợ, chồng, con cái.

Chương 2:

KẾT HÔN

Điều 5

Nam từ 20 tuổi trở lên, nữ từ 18 tuổi trở lên mới được kết hôn.

Điều 6

Việc kết hôn do nam nữ tự nguyện quyết định, không bên nào được ép buộc bên nào, không ai được cưỡng ép hoặc cản trở.

Điều 7

Cấm kết hôn trong những trường hợp sau đây :

a) Đang có vợ hoặc có chồng ;

b) Đang mắc bệnh tâm thần không có khả năng nhận thức hành vi của mình ; đang mắc bệnh hoa liễu ;

c) Giữa những người cùng dòng máu về trực hệ ; giữa anh chị em cùng cha mẹ, cùng cha khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha ; giữa những người khác có họ trong phạm vi ba đời ;

d) Giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi.

Điều 8

Việc kết hôn do Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi thường trú của một trong hai người kết hôn công nhận và ghi vào sổ kết hôn theo nghi thức do Nhà nước quy định.

Việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với nhau ở ngoài nước do cơ quan đại diện ngoại giao của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam công nhận.

Mọi nghi thức kết hôn khác đều không có giá trị pháp lý.

Điều 9

Việc kết hôn vi phạm một trong các Điều 5, 6, 7 của Luật này là trái pháp luật.

Một hoặc hai bên đã kết hôn trái pháp luật, vợ, chồng hoặc con của người đang có vợ, có chồng mà kết hôn với người khác, Viện kiểm sát nhân dân, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Công đoàn Việt Nam có quyền yêu cầu Tòa án nhân dân huỷ việc kết hôn trái pháp luật.

Tài sản của những người mà hôn nhân bị huỷ được giải quyết theo nguyên tắc : tài sản riêng của ai thì vẫn thuộc quyền sở hữu của người ấy ; tài sản chung được chia căn cứ vào công sức đóng góp của mỗi bên ; quyền lợi chính đáng của bên bị lừa dối hoặc bị cưỡng ép kết hôn được bảo vệ.

Quyền lợi của con được giải quyết như trong trường hợp cha mẹ ly hôn.

Chương 3:

NGHĨA VỤ VÀ QUYỀN CỦA VỢ, CHỒNG

Điều 10

Vợ, chồng có nghĩa vụ và quyền ngang nhau về mọi mặt trong gia đình.

Điều 11

Vợ, chồng có nghĩa vụ chung thuỷ với nhau, thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau tiến bộ, cùng nhau thực hiện sinh đẻ có kế hoạch.

Chồng có nghĩa vụ tạo điều kiện cho vợ thực hiện tốt chức năng của người mẹ.

Điều 12

Vợ, chồng có quyền tự do chọn nghề nghiệp chính đáng, tham gia các công tác chính trị, kinh tế, văn hoá và xã hội.

Điều 13

Chỗ ở của vợ chồng do vợ chồng lựa chọn, không bị ràng buộc bởi phong tục, tập quán.

Điều 14

Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ hoặc chồng tạo ra, thu nhập về nghề nghiệp và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được cho chung.

Điều 15

Tài sản chung được sử dụng để bảo đảm những nhu cầu chung của gia đình.

Vợ, chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau đối với tài sản chung. Việc mua bán, đổi, cho, vay, mượn, và những giao dịch khác có quan hệ đến tài sản mà có giá trị lớn thì phải được sự thoả thuận của vợ, chồng.

Điều 16

Đối với tài sản mà vợ hoặc chồng có trước khi kết hôn, tài sản được thừa kế riêng hoặc được cho riêng trong thời kỳ hôn nhân thì người có tài sản đó có quyền nhập hoặc không nhập vào khối tài sản chung của vợ chồng.

Điều 17

Khi một bên chết trước, nếu cần chia tài sản chung của vợ chồng thì chia đôi. Phần tài sản của người chết được chia theo quy định của pháp luật về thừa kế.

Vợ, chồng có quyền thừa kế tài sản của nhau.

Điều 18

Khi hôn nhân tồn tại, nếu một bên yêu cầu và có lý do chính đáng, thì có thể chia tài sản chung của vợ chồng theo quy định ở Điều 42 của Luật này.

Chương 4:

NGHĨA VỤ VÀ QUYỀN CỦA CHA MẸ VÀ CON

Điều 19

Cha mẹ có nghĩa vụ thương yêu, nuôi dưỡng, giáo dục con, chăm lo việc hoặc tập và sự phát triển lành mạnh của con về thể chất, trí tuệ và đạo đức.

Cha mẹ không được phân biệt đối xử giữa các con.

Cha mẹ phải làm gương tốt cho con về mọi mặt, và phối hợp chặt chẽ với nhà trường và các tổ chức xã hội trong việc giáo dục con.

Điều 20

Cha mẹ có nghĩa vụ nuôi dưỡng con đã thành niên mà không có khả năng lao động để tự nuôi mình.

Điều 21

Các con có nghĩa vụ và quyền ngang nhau trong gia đình.

Con có nghĩa vụ kính trọng, chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ, lắng nghe những lời khuyên bảo của cha mẹ.

Điều 22

Con đã thành niên còn ở chung với cha mẹ có quyền lựa chọn nghề nghiệp, tham gia các công tác chính trị, kinh tế, văn hoá và xã hội.

Điều 23

Con có quyền có tài sản riêng.

Con từ 16 tuổi trở lên còn ở chung với cha mẹ có nghĩa vụ chăm lo đời sống chung của gia đình, và nếu có thu nhập riêng thì phải đóng góp vào nhu cầu của gia đình.

Điều 24

Cha mẹ đại diện cho con chưa thành niên trước pháp luật.

Cha mẹ quản lý tài sản của con chưa thành niên.

Điều 25

Cha mẹ chịu trách nhiệm bồi thường các thiệt hại do hành vi trái pháp luật của con dưới 16 tuổi gây ra. Trong trường hợp cha mẹ không có khả năng mà con có tài sản riêng thì lấy tài sản của con để bồi thường.

Con chưa thành niên từ 16 tuổi trở lên chịu trách nhiệm bồi thường bằng tài sản riêng của mình đối với các thiệt hại do hành vi trái pháp luật của mình gây ra. Nếu con không có tài sản riêng thì cha mẹ phải bồi thường.

Điều 26

Người cha, người mẹ nào bị xử phạt về một trong các tội xâm phạm thân thể, nhân phẩm của con chưa thành niên, ngược đãi nghiêm trọng hoặc hành hạ con chưa thành niên, thì có thể bị Toà án nhân dân quyết định không cho trông giữ, giáo dục con, quản lý tài sản của con hoặc đại diện cho con trong thời hạn từ một năm đến năm năm. Đối với người đã sửa chữa, Toà án nhân dân có thể rút ngắn thời hạn này.

Người cha, người mẹ nói trên vẫn có nghĩa vụ đóng góp phí tổn nuôi dạy con.

Điều 27

Ông, bà có nghĩa vụ nuôi dưỡng, giáo dục cháu chưa thành niên trong trường hợp cháu không còn cha mẹ. Cháu đã thành niên có nghĩa vụ nuôi dưỡng ông bà trong trường hợp ông bà không còn con. Anh chị em có nghĩa vụ đùm bọc lẫn nhau trong trường hợp không còn cha mẹ.

Chương 5:

XÁC ĐỊNH CHA, MẸ CHO CON

Điều 28

Con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong thời kỳ đó là con chung của vợ chồng.

Trong trường hợp có yêu cầu xác định lại vấn đề này thì phải có chứng cứ khác.

Điều 29

Người được khai là cha, là mẹ một đứa trẻ có thể xin xác định đứa trẻ đó không phải là con mình.

Người không được khai là cha, là mẹ một đứa trẻ có thể xin xác định đứa trẻ đó là con của mình.

Điều 30

Việc cha mẹ nhận con ngoài giá thú do Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi thường trú của người con công nhận và ghi vào sổ khai sinh.

Điều 31

Con ngoài giá thú có quyền xin nhận cha, mẹ kể cả trong trường hợp cha. mẹ đã chết.

Người mẹ, người cha hoặc người đỡ đầu có quyền yêu cầu xác định cha, mẹ cho người con ngoài giá thú chưa thành niên.

Viện kiểm sát nhân dân, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Công đoàn Việt Nam có quyền yêu cầu xác định cha, mẹ cho người con ngoài giá thú chưa thành niên.

Điều 32

Con ngoài giá thú được cha, mẹ nhận hoặc được Toà án nhân dân cho nhận cha, mẹ có mọi quyền và nghĩa vụ như con trong giá thú.

Điều 33

Các tranh chấp về nhận con, nhận cha, mẹ do Toà án nhân dân nơi thường trú của người con xét xử.

Chương 6:

NUÔI CON NUÔI

Điều 34

Việc nuôi con nuôi nhằm gắn bó tình cảm giữa người nuôi và con nuôi trong quan hệ cha mẹ và con cái, bảo đảm người con nuôi chưa thành niên được nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục tốt.

Giữa người nuôi và con nuôi có những nghĩa vụ và quyền của cha mẹ và con quy định ở các Điều từ 19 đến 25 của Luật này.

Điều 35

Người từ 15 tuổi trở xuống mới được nhận làm con nuôi. Trong trường hợp con nuôi là thương binh, người tàn tật hoặc làm con nuôi người già yếu cô đơn thì con nuôi có thể trên 15 tuổi.

Người nuôi phải hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên.

Điều 36

Việc nhận nuôi con nuôi phải được sự thoả thuận của hai vợ chồng người nuôi, của cha mẹ đẻ hoặc người đỡ đầu của người con nuôi chưa thành niên. Nếu nhận nuôi người từ 9 tuổi trở lên thì còn phải được sự đồng ý của người đó.

Điều 37

Việc nhận nuôi con nuôi do Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi thường trú của người nuôi hoặc con nuôi công nhận và ghi vào sổ hộ tịch.

Điều 38

Nhà nước và xã hội khuyến khích việc nhận các trẻ em mồ côi làm con nuôi.

Con liệt sĩ được nhận làm con nuôi vẫn hưởng mọi quyền lợi của con liệt sĩ.

Điều 39

Việc nuôi con nuôi có thể chấm dứt khi người nuôi hoặc con nuôi hoặc cả hai người có hành vi nghiêm trọng xâm phạm thân thể, nhân phẩm của nhau hoặc những hành vi khác làm cho tình cảm giữa người nuôi và con nuôi không còn nữa.

Việc chấm dứt nuôi con nuôi do Toà án nhân dân quyết định theo yêu cầu của con nuôi hoặc của người nuôi. Trong trường hợp người con nuôi chưa thành niên thì cha mẹ đẻ hoặc người đỡ đầu của con nuôi, Viện kiểm sát nhân dân, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Công đoàn Việt Nam có quyền yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi.

Chương 7:

LY HÔN

Điều 40

Khi vợ hoặc chồng, hoặc cả hai vợ chồng có đơn xin ly hôn thì Toà án nhân dân tiến hành điều tra và hoà giải.

Trong trường hợp cả hai vợ chồng xin ly hôn, nếu hoà giải không thành và nếu xét đúng là hai bên thật sự tự nguyện ly hôn, thì Toà án nhân dân công nhận cho thuận tình ly hôn.

Trong trường hợp một bên vợ hoặc chồng xin ly hôn, nếu hoà giải không thành thì Toà án nhân dân xét xử. Nếu xét thấy tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được thì Toà án nhân dân xử cho ly hôn.

Điều 41

Trong trường hợp vợ có thai, chồng chỉ có thể xin ly hôn sau khi vợ đã sinh con được một năm.

Điều hạn chế này không áp dụng đối với việc xin ly hôn của người vợ.

Điều 42

Khi ly hôn, việc chia tài sản do hai bên thỏa thuận, và phải được Tòa án nhân dân công nhận. Nếu hai bên không thoả thuận được với nhau thì Toà án nhân dân quyết định.

Việc chia tài sản khi ly hôn, về nguyên tắc, phải theo những quy định dưới đây:

a) Tài sản riêng của bên nào thì vẫn thuộc quyền sở hữu của bên ấy;

b) Tài sản chung của vợ chồng được chia đôi, nhưng có xem xét một cách hợp lý đến tình hình tài sản, tình trạng cụ thể của gia đình và công sức đóng góp của mỗi bên;

c) Trong trường hợp vợ chồng do còn sống chung với gia đình mà tài sản của bản thân vợ chồng không xác định được thì vợ hoặc chồng được chia một phần trong khối tài sản chung của gia đình, căn cứ vào công sức của người được chia đóng góp vào việc duy trì và phát triển khối tài sản chung, cũng như vào đời sống chung của gia đình. Lao động trong gia đình được coi như lao động sản xuất;

d) Khi chia tài sản, phải bảo vệ quyền lợi của người vợ và của người con chưa thành niên, bảo vệ lợi ích chính đáng của sản xuất và nghề nghiệp.

Điều 43

Khi ly hôn, nếu bên túng thiếu yêu cầu cấp dưỡng thì bên kia phải cấp dưỡng theo khả năng của mình.

Khoản cấp dưỡng và thời gian cấp dưỡng do hai bên thoả thuận. Nếu hai bên không thoả thuận được với nhau thì Toà án nhân dân quyết định.

Khi hoàn cảnh thay đổi, người được cấp dưỡng hoặc người phải cấp dưỡng có thể yêu cầu sửa đổi mức hoặc thời gian cấp dưỡng. Nếu người cấp dưỡng kết hôn với người khác thì không được cấp dưỡng nữa.

Điều 44

Vợ chồng đã ly hôn vẫn có mọi nghĩa vụ và quyền đối với con chung.

Điều 45

Khi ly hôn, việc giao con chưa thành niên cho ai trông nom, nuôi dưỡng, giáo dục phải căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con. Về nguyên tắc, con còn bú được giao cho người mẹ nuôi giữ.

Người không nuôi giữ con có nghĩa vụ và quyền thăm nom, chăm sóc con và phải đóng góp phí tổn nuôi dưỡng, giáo dục con. Nếu trì hoãn hoặc lẩn tránh việc đóng góp, thì Toà án nhân dân quyết định khấu trừ vào thu nhập hoặc buộc phải nộp những khoản phí tổn đó.

Vì lợi ích của con, khi cần thiết, có thể thay đổi việc nuôi giữ con hoặc mức đóng góp phí tổn nuôi dưỡng, giáo dục con.

Chương 8:

CHẾ ĐỘ ĐỠ ĐẦU

Điều 46

Việc đỡ đầu được thực hiện trong trường hợp cần bảo đảm việc chăm nom, giáo dục và bảo vệ quyền lợi của người chưa thành niên mà cha mẹ đã chết, hoặc tuy cha mẹ còn sống nhưng không có điều kiện để làm những nhiệm vụ đó.

Điều 47

Cha mẹ có thể cử người đỡ đầu cho con chưa thành niên. Nếu cha mẹ không cử được thì những người thân thích có thể cử người đỡ đầu cho người đó. Việc cử người đỡ đầu do Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn công nhận.

Trong trường hợp cha mẹ hoặc những người thân thích không cử được người đỡ đầu thì cơ quan Nhà nước có chức năng hoặc tổ chức xã hội đảm nhiệm việc đỡ đầu người con chưa thành niên.

Điều 48

Công dân làm người đỡ đầu phải là người từ 21 tuổi trở lên, có tư cách đạo đức tốt và có điều kiện thực tế để làm người đỡ đầu.

Điều 49

Công dân hoặc tổ chức làm người đỡ đầu có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây :

a) Chăm sóc, giáo dục người được đỡ đầu;

b) Quản lý tài sản của người được đỡ đầu;

c) Đại diện cho người được đỡ đầu trước pháp luật và bảo vệ quyền lợi của người đó.

Điều 50

Công dân làm người đỡ đầu chịu sự giám sát của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn về công việc đỡ đầu.

Người thân thích của người được đỡ đầu, Viện kiểm sát nhân dân,

Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Công đoàn Việt Nam có quyền yêu cầu Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn thay người đỡ đầu, nếu người này không làm tròn nhiệm vụ, gây thiệt hại nghiêm trọng đến quyền lợi của người đỡ đầu.

Công dân làm người đỡ đầu có thể yêu cầu cử người thay, nếu thấy mình không còn đủ điều kiện làm người đỡ đầu.

Điều 51

Việc đỡ đầu chấm dứt khi người chưa thành niên được giao lại cho cha mẹ, được nhận làm con nuôi, hoặc đủ 18 tuổi.

Chương 9:

QUAN HỆ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH CỦA CÔNG DÂN VIỆT NAM VỚI NGƯỜI NƯỚC NGOÀI

Điều 52

Trong việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, mỗi bên tuân theo những quy định của pháp luật nước mình về kết hôn.

Nếu việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài tiến hành ở Việt Nam thì người nước ngoài còn phải tuân theo các quy định ở Điều 5, Điều 6, Điều 7 của Luật này. Thủ tục kết hôn do Hội đồng bộ trưởng quy định.

Điều 53

Những vấn đề về quan hệ vợ chồng, quan hệ tài sản, quan hệ cha mẹ và con, huỷ việc kết hôn, ly hôn, nuôi con nuôi và đỡ đầu giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài do Hội đồng Nhà nước quy định.

Điều 54

Trong trường hợp đã có hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý về hôn nhân và gia đình giữa Việt Nam và nước ngoài, thì tuân theo những quy định của các hiệp định đó.

Chương 10:

ĐIỀU KHOẢN CUỐI CÙNG

Điều 55

Đối với dân tộc thiểu số, Hội đồng Nhà nước căn cứ Luật này và tình hình cụ thể mà có những quy định thích hợp.

Điều 56

Hội đồng bộ trưởng, Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, trong phạm vi chức năng của mình, có trách nhiệm hướng dẫn thi hành Luật này.

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Công đoàn Việt Nam giáo dục, vận động nhân dân thi hành nghiêm chỉnh Luật này.

Điều 57

Luật này thay thế Luật hôn nhân và gia đình năm 1959.

Luật này đã được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá VII, kỳ họp thứ 12, thông qua ngày 29 tháng 12 năm 1986.

3. Câu hỏi thường gặp

Cơ quan nào có thẩm quyền ban hành Luật Hôn nhân và gia đình 1986 21-LCT/HĐNN7?

Luật Hôn nhân và gia đình 1986 số 21-LCT/HĐNN7, được Hội đồng Nhà nước của Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ban hành.

Luật Hôn nhân và gia đình 2014 có những thay đổi đáng chú ý so với Luật Hôn nhân và gia đình 1986 không?

Luật Hôn nhân và gia đình 2014 có những thay đổi đáng chú ý so với Luật Hôn nhân và gia đình 1986. Sau đây là một số điểm khác biệt quan trọng giữa hai luật này:

Độ tuổi kết hôn: Luật Hôn nhân và gia đình 2014 điều chỉnh lại độ tuổi kết hôn, nâng lên từ đủ 18 tuổi trở lên đối với nữ và từ đủ 20 tuổi trở lên đối với nam, nhằm bảo vệ người trẻ khi tham gia hôn nhân. Trong khi đó, Luật Hôn nhân và gia đình 1986 không có quy định cụ thể về độ tuổi này.

Quản lý tài sản: Luật Hôn nhân và gia đình 2014 có các quy định chi tiết hơn về quản lý tài sản của vợ chồng, yêu cầu thỏa thuận về tài sản phải được lập bằng văn bản có công chứng hoặc chứng thực trước khi kết hôn, và có thể điều chỉnh sau khi kết hôn. Điều này khác với Luật Hôn nhân và gia đình 1986, trong đó các quy định về quản lý tài sản chưa được chi tiết hóa như vậy.

Mang thai hộ: Luật Hôn nhân và gia đình 2014 cho phép mang thai hộ với mục đích nhân đạo, nhưng chỉ khi có đủ các điều kiện về cả người nhờ mang thai hộ và người mang thai hộ. Điều này là một điểm khác biệt lớn so với Luật Hôn nhân và gia đình 1986, khi đề cập đến vấn đề này không rõ ràng và chi tiết.

Cải cách thủ tục ly hôn: Luật Hôn nhân và gia đình 2014 cải tiến thủ tục ly hôn nhằm tăng tính minh bạch và giảm thiểu tranh chấp, bằng cách tăng cường quản lý và giám sát quyền lợi của các bên trong quá trình ly hôn. Điều này là một tiến bộ so với thủ tục ly hôn trong Luật Hôn nhân và gia đình 1986, khi mà các quy định thường ít minh bạch hơn và gây ra nhiều tranh cãi hơn.

Bảo vệ quyền lợi của con cái: Luật Hôn nhân và gia đình 2014 có những điều chỉnh rõ ràng hơn về quyền và nghĩa vụ của con cái trong mối quan hệ hôn nhân và gia đình, nhằm đảm bảo tính công bằng và bảo vệ quyền lợi của các con cái. Điều này là một phần quan trọng để thích ứng với các thực tiễn xã hội đang thay đổi, khác với Luật Hôn nhân và gia đình 1986 có những quy định khá chung chung và ít cụ thể về vấn đề này.

Tóm lại, Luật Hôn nhân và gia đình 2014 mang lại nhiều điều chỉnh và cải tiến quan trọng so với Luật Hôn nhân và gia đình 1986, nhằm đáp ứng các thực tiễn và thách thức mới trong các mối quan hệ gia đình và hôn nhân hiện đại.

Phạm vi áp dụng của Luật Hôn nhân và gia đình 1986 và Luật Hôn nhân và gia đình 2014 khác nhau như thế nào?

Phạm vi áp dụng của Luật Hôn nhân và gia đình 1986 và Luật Hôn nhân và gia đình 2014 có những khác biệt đáng chú ý. Luật Hôn nhân và gia đình 1986, ban đầu được áp dụng trong bối cảnh xã hội Việt Nam đang tiến vào giai đoạn đổi mới, tập trung vào việc đề ra các nguyên tắc cơ bản về hôn nhân, gia đình và quản lý tài sản. Phạm vi áp dụng của luật này tập trung chủ yếu vào việc quản lý các mối quan hệ gia đình theo một cách tổng quát, ít chi tiết hóa về các quy định cụ thể.

Ngược lại, Luật Hôn nhân và gia đình 2014 đã được thiết kế và áp dụng trong một bối cảnh pháp lý và xã hội phát triển hơn, với mục tiêu cụ thể hóa và chi tiết hóa các quy định hơn so với Luật Hôn nhân và gia đình 1986. Luật này không chỉ mở rộng phạm vi áp dụng để bảo vệ rộng rãi hơn các quyền lợi của các thành viên trong gia đình, mà còn điều chỉnh các vấn đề như độ tuổi kết hôn, quản lý tài sản, mang thai hộ và thủ tục ly hôn một cách chi tiết và rõ ràng hơn.

Do đó, phạm vi áp dụng của Luật Hôn nhân và gia đình 2014 được coi là rộng hơn và chi tiết hơn so với Luật Hôn nhân và gia đình 1986, phù hợp với các yêu cầu và thực tiễn xã hội hiện đại.

Luật Hôn nhân và gia đình 1986, số 21-LCT/HĐNN7, là cột mốc quan trọng đánh dấu sự phát triển của pháp luật gia đình tại Việt Nam trong giai đoạn đầu của đổi mới. Ban hành bởi Hội đồng Nhà nước, luật này cung cấp khung pháp lý tổng thể về hôn nhân, gia đình và quản lý tài sản, đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ quyền lợi và nghĩa vụ của các thành viên gia đình.

Nội dung bài viết:

    Hãy để lại thông tin để được tư vấn

    Họ và tên không được để trống

    Số điện thoại không được để trống

    Số điện thoại không đúng định dạng

    Vấn đề cần tư vấn không được để trống

    comment-blank-solid Bình luận

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo