TÒA ÁN NH N Đ N HUYỆN BÌNH GIA TỈNH LẠNG SƠN
BẢN Án 05/2017/ST-DS NGÀY 17 THÁNG 8 NĂM 2017 VỀ TỐN BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DANH DỰ, SẢN PHẨM, UY TÍN
Ngày 17/8/2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn đã xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 06/2017/TLST-DS ngày 12/7/2017 về yêu cầu bồi thường thiệt hại. danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm theo quyết định khởi tố vụ án số 05/2017/QĐXX-ST ngày 01/8/2017 giữa các bên đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn H - Sinh năm 1967; Địa chỉ P, xã H, huyện B, tỉnh Lạng Sơn. Quà. - Bị đơn: Chị Hoàng Thị L - Sinh ngày 01/10/1999, trú tại thôn P, xã H, huyện B, tỉnh Lạng Sơn. Quà. Người đại diện của bà Hoàng Thị L: Anh Nông Quang V - Sinh năm 1993 (do bà Hoàng Thị L chọn). Vắng mặt, có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt. Anh Hoàng Văn C - Sinh năm 1989, trú tại thôn N, xã H, huyện B, tỉnh Lạng Sơn (là chú của Hoàng Thị L). Quà. - Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Bà Liêu Thị N - Sinh năm 1970, trú tại thôn P, xã H, huyện B, tỉnh Lạng Sơn. Quà. Anh Nông Quang V - Sinh năm 1993, trú tại thôn P, xã H, huyện B, tỉnh Lạng Sơn. Vắng mặt, có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt. - Người chứng kiến: Anh Nguyễn Văn N, sinh năm 1990; ông Nông Văn D, sinh năm 1956; chị Nguyễn Thị C, sinh năm 1978. Cả hai cùng trú tại thôn P, xã H, huyện B, tỉnh Lạng Sơn. Ông Nguyễn Văn N và bà Nguyễn Thị C có mặt; ông Nông Văn Đ vắng mặt. NỘI DUNG TÌNH HUỐNG
Tại phiên tòa xét xử ngày 05/6/2017, bản tự khai ngày 12/7/2017, phiên hòa giải ngày 01/8/2017 và nguyên đơn tại phiên tòa, ông Nguyễn Văn H trình bày: Khoảng 15h ngày 08/02/2016 là ngày 1. ngày Tết Nguyên Đán. Trong khi gia đình ông không có ai ở nhà, thì chị Hoàng Thị L đến nhà chửi bới, xúc phạm đến tổ tiên gia đình, dọa giết ông Nguyễn Văn H và gây mất trật tự, đồng thời có những lời lẽ chửi bới nói xấu làm ảnh hưởng đến danh dự, uy tín, nhân phẩm của ông Nguyễn Văn H và gia đình. Khi ông Nguyễn Văn H nhận được tin nói chị Hoàng Thị L đến nhà chửi bới, ông Nguyễn Văn H đã về nhà thì thấy chị Hoàng Thị L nằm ngất ở trước cửa nhà, lúc này có nhiều người trong gia đình chồng chị Hoàng Thị L có mặt vào hùa nói xấu gia đình ông Nguyễn Văn H, sau đó một lúc thì chồng chị Hoàng Thị L là anh Nông Quang V đưa chị Hoàng Thị L về nhà. Còn ông Nguyễn Văn H được những người có mặt chứng kiến sự việc là anh Nguyễn Văn N và chị Nguyễn Thị C kể lại là chị Hoàng Thị L tự xông vào nhà chửi bới, la hét và nằm ngất tại nhà ông Nguyễn Văn H. Ông Nguyễn Văn H cho rằng giữa gia đình ông và chị Hoàng Thị L không có mâu thuẫn gì, vì là ngày mồng 1 tết nguyên đán nên ông có nói với gia đình chị Hoàng Thị L là sau 15 đến nói chuyện hòa giải xin lỗi nhau, nhưng không thấy chị Hoàng Thị L và gia đình đến nói chuyện, mà anh Nông Quang V chồng chị Hoàng Thị L còn thách thức nói không xin lỗi, bồi thường gì. Cho rằng ngày mồng 1 tết lại có người đến nhà chửi bới, xúc phạm nói lảm nhảm làm gia đình gặp xui xẻo, để mọi người xung quanh ghi ngờ chuyện gia đình ông Nguyễn Văn H có bùa, ngải, nên ông Nguyễn Văn H thấy danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm hại. Khi sự việc xảy ra, thôn P đã đăng ký, sau đó ông Nguyễn Văn H yêu cầu chính quyền địa phương giải quyết hòa giải và yêu cầu bồi thường nhưng bà Hoàng Thị L không đồng ý bồi thường. Trong đơn khởi kiện, anh Nguyễn Văn H yêu cầu chị Hoàng Thị L bồi thường thiệt hại gồm: tiền tổn thất tinh thần 7.000.000 đồng; vinh dự là 5.000.000 đồng; Chi phí đi lại giải quyết vụ việc là 3.000.000 đồng, tổng cộng là 15.000.000 đồng. Nhưng trong buổi hòa giải và xét xử hôm nay, ông Nguyễn Văn H đã rút yêu cầu bồi thường 10.000.000 đồng, trong đó tiền công tác phí là 3.000.000 đồng, tiền danh dự, uy tín là 7.000.000 đồng. Bà Liêu Thị N (vợ ông Nguyễn Văn H) cũng không hề hay biết sự việc, chỉ nghe kể lại. Nay đề nghị Tòa án ra quyết định buộc bà Hoàng Thị Lệ phải bồi thường thiệt hại cho ông Nguyễn Văn H nêu trên. Tại bản tự khai, biên bản lấy lời khai cùng ngày 18/7/2017, tại phiên hòa giải ngày 01/8/2017, lời trình bày tại phiên tòa chị Hoàng Thị L trình bày: Khoảng 13 giờ ngày 08/02/2016 tức ngày 01 tết nguyên đán năm 2016, tự dưng chị Hoàng Thị L thấy nóng mặt, cảm giác như có một cái gì đó xâm nhập vào người không nhận biết được gì nữa, đến cả chồng và mẹ chồng chị Hoàng Thị L cũng không nhận ra, bản thân đi đâu và làn gì cũng không nhớ, cho đến khi chị Hoàng Thị L tỉnh dậy thì được mọi người nói lại chị Hoàng Thị L tự đến nhà ông Nguyễn Văn H nói làm nhảm, chửi bới gia đình ông Nguyễn Văn H, rồi nằm ngất trước cửa nhà ông Nguyễn Văn H. Chị Hoàng Thị L cho rằng từ trước đến khi lấy anh Nông Quang V làm chồng ngày 12/01/2016, thì sức khỏe, tinh thần bình thường, bản thân chị Hoàng Thị L cũng không biết tại sao lại chửi bới như vậy, giữa hai nhà từ trước tới khi sự việc xảy ra không có mâu thuẫn gì. Bản thân chị Hoàng Thị L biết việc đến nhà ông Nguyễn Văn H chửi bới vào ngày mồng 1 tết là sai, nhưng chưa đập phá tài sản, hay xâm hại đến tính mạng, sức khỏe của ai trong gia đình ông Nguyễn Văn H. Nay ông Nguyễn Văn H yêu cầu bồi thường tổng số tiền là 10.000.000đồng chị Hoàng Thị L không nhất trí vì quá cao, mà chỉ nhất trí bồi thường 1.000.000đồng. Người giám hộ cho chị Hoàng Thị L, là anh Nông Quang V tại biên bản lấy lời khai ngày 18/7/2017 trình bày: Khoảng 12 ngày 01 tết năm âm lịch năm 2016, gia đình anh có tổ chức ăn cơm tại gia đình, một lúc sau không thấy vợ đâu, anh cùng mọi người có đi tìm nhưng không thấy, đến khoảng 14 giờ cùng ngày thì biết chị Hoàng Thị L đang ở nhà ông Nguyễn Văn H và chửi bới nói nhảm linh tinh khoảng 30 phút thì bị ngất nằm trước cửa nhà ông Nguyễn Văn H, sau đó gia đình đã đưa về nhà, cho rằng bị bệnh gia đình đã đưa đi khám tại phòng khám tư ở thị trấn Bắc Sơn, huyện Bắc Sơn nhưng kết luận không có bệnh gì. Còn việc bản thân Hoàng Thị L đến nhà ông Nguyễn Văn H để chửi bới, do không biết nguyên nhân do ông Nguyễn Văn H đã làm đơn yêu cầu thôn, xã vào cuộc giải quyết mà ông L vẫn đòi. bồi thường 15.000.000 đồng, do yêu cầu quá cao nên không thỏa thuận được. Nay ông Nông Quang V cũng chỉ đồng ý bồi thường 1.000.000 đồng và đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật. Còn các nhân chứng là ông Nguyễn Văn N, bà Nguyễn Thị C, ông Nông Văn D cho biết, khoảng 15h ngày 1/3/2016, họ thấy bà Hoàng Thị L và một số người đến nhà ông Nguyễn Văn H. nhà, các nhân chứng trên cũng có mặt, anh Nguyễn Văn N là em ruột của anh Nguyễn Văn H thấy chị Hoàng Thị L vào thề trước bàn thờ tổ tiên và cho biết hôm nay là ngày mùng 1 của Tết Nguyên đán họ Nguyễn Sui còn nói sẽ giết cả nhà anh Nguyễn Văn H, chúc tết tất cả rồi Hoàng Thị L ngất xỉu ở nhà, sau đó gọi điện thoại thông báo cho anh Nguyễn Văn H. nội dung hai bên thống nhất: Vào khoảng 14h ngày mùng 1 Tết Nguyên đán 2016, có sự việc chị Hoàng Thị L đến nhà anh Nguyễn Văn H để chửi thề, do đó anh H. có về quê ăn Tết, do đó làm tổn hại đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của ông Nguyễn Văn H nên yêu cầu ông H bồi thường 10.000.000 đồng, bà Dương Thị L và ông Nông Quang V không đồng ý mà chỉ chấp nhận bồi thường 1.000.000 đồng, nếu không đạt được thỏa thuận, họ yêu cầu tòa án phán quyết theo pháp luật. Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát tuyên bố: Việc tiến hành tố tụng của Thẩm phán, Thư ký Tòa án và Hội thẩm nhân dân đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật về tố tụng dân sự. Các bên liên quan được bảo đảm về quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật. Về nội dung đề nghị áp dụng khoản 2 Điều 586, Điều 592 Bộ luật Dân sự buộc bà Hoàng Thị L phải bồi thường thiệt hại về danh dự, uy tín do ông Nguyễn đã thề Văn H vào ngày mùng 1 Tết theo quy định của pháp luật và phải chịu án phí dân sự theo quy định của pháp luật. NHẬN XÉT CỦA TÒA ÁN
[1] Về quan hệ pháp luật: Yêu cầu bồi thường thiệt hại khi danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm theo quy định tại Điều 586 và Điều 592 của Bộ luật dân sự và yêu cầu khởi kiện trong thời hạn pháp luật xác định. [2] Căn cứ vào lời khai của bà Hoàng Thị L, lời khai của các nhân chứng và biên bản sự việc do chính quyền thôn P, xã H lập, lúc 16 giờ 30 phút ngày 08/02/2016, bà Hoàng Thị L đến. Việc nhà Nguyễn Văn H chửi bới, chửi bới trước bàn thờ tổ tiên là đúng, vì hai bên không có mâu thuẫn gì nên việc đến nhà người khác chửi bới là hành vi bị pháp luật nghiêm cấm. . Việc chị Hoàng Thị L cho rằng không biết tại sao lại đến nhà ông Nguyễn Văn H chửi bới vào ngày mùng 1 tết âm lịch, rồi nằm ngất tại đó, đồng thời khẳng định bản thân không bị bệnh lý về tâm thần. Do vậy xác định do lỗi của chị HoàngThị L và phải tự chịu trách nhiệm về hành vi của mình. Tuy chưa gây thiệt hại về tài sản hay sức khỏe của ai trong gia đình ông Nguyễn Văn H, nhưng việc đến chửi bới đã trực tiếp xâm hại đến danh dự, uy tín gia đình ông Nguyễn Văn H, nên cần phải buộc chị Hoàng Thị L phải bồi thường thiệt hại tương ứng với hành vi, hậu quả đã gây ra, việc này phù hợp với ý chí chủ quan của chị Hoàng Thị L đã nhận ra lỗi của mình và đồng ý bồi thường 1.000.000đồng, hiện chị Hoàng Thị L chưa đủ 18 tuổi, nhưng tại phiên tòa có ý kiến nay đã có chồng và tham gia lao động có thu nhập, nên có khả năng tự bồi thường, không yêu cầu người giám hộ phải bồi thường thay. [3] Xét về các yêu cầu đòi bồi thường của nguyên đơn: Thấy yêu cầu đòi bồi thường 10.000.000đồng của ông Nguyễn Văn H là quá cao, có khoản không có căn cứ chấp nhận như tiền đi lại để giải quyết vụ việc 3.000.000đồng, đây là trách nhiệm của công dân khi đến yêu cầu các cơ quan có thẩm quyền giải quyết sự việc.Còn yêu cầu đòi bồi thường danh dự, uy tín, tổn thất về tinh thần là 7.000.000đồng, ông Nguyễn Văn H không có tài liệu chứng cứ chứng minh thể hiện các khoản thiệt hại 7.000.000đồng, nhưng việc chị Hoàng Thị L là người có đủ năng lực hành vi dân sự mà đến nhà người khác chửi bới, nhất là vào ngày mùng 1 tết nguyên đán là không đúng với phong tục, tập quán trong ngày đầu năm mới tết cổ truyền, lẽ ra ngày này là hàng xóm thì chỉ đến chúc tết mong muốn điều tốt lành. Do vậy có căn cứ xác định với hành vi của chị Hoàng Thị L thì gia đình ông Nguyễn Văn H bị ảnh hưởng về tâm lý, tinh thần, danh dự có thể dẫn đến sự hiểu lầm của bà con hàng xóm, nên cần buộc chị Hoàng Thị L phải bồi thường tổn thất về tinh thần dodanh dự, uy tín bị xâm hại cho ông Nguyễn Văn H tương ứng 3 tháng lương cơ bản do nhà nước quy định với số tiền 3.900.000đồng là phù hợp, có căn cứ và đúng pháp luật. [4] Về án phí: áp dụng khoản 1 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 và khoản 1 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 Nghị quyết của Ủy ban Quốc hội về án phí, lệ phí. Buộc bà Hoàng Thị L nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm vô giá trị, sung công quỹ nhà nước. [5] Các ý kiến và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là phù hợp và có căn cứ pháp luật nên cần xem xét và thi hành quyết định trong việc giải quyết vụ án. [6] Các bên liên quan không có ý kiến tranh luận và đề nghị hội đồng xét xử xem xét, giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật. Các bên có quyền khiếu nại theo quy định của pháp luật. Vì những lý do trên,
PHÁN QUYẾT
Căn cứ vào Điều 1, Điều 584, Điều 585, Điều 2, Điều 586, Điều 592 và Điều 1 và Điều 2 Điều 357 của Bộ luật Dân sự; khoản 1 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 và khoản 1 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 Nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí. 1. Về yêu cầu bồi thường thiệt hại: Buộc bị đơn là bà Hoàng Thị L phải trả cho nguyên đơn là ông Nguyễn Văn H khoản tiền bồi thường tổn thất về tinh thần do danh dự, uy tín của ông bị xâm phạm với số tiền là 3.900.000 đồng (ba triệu chín mươi chín). triệu). trăm nghìn đồng). Từ văn bản yêu cầu của người hưởng lợi, nếu người trả tiền chưa trả thì còn phải trả tiền lãi quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 357 Bộ luật dân sự. 2. Về án phí: Buộc bị đơn là bà Hoàng Thị L phải nộp án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) sung công quỹ. Đương sự có mặt có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Ông Nông Quang V có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận hoặc ngày đăng bản án. 3. Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Mục 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận việc thi hành án và quyền yêu cầu. thi hành án một cách tự nguyện. thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các mục 6, 7 và 9 của Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Bản án số 06/2017/ds-st
TÒA ÁN TỈNH THỪA THIÊN HUẾ
Bản án 05/2017/DS-ST ngày 30 tháng 8 năm 2017 VỀ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
Ngày 30/8/2017 tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế - 11 Tôn Đức Thắng, Thành phố Huế đã xét xử sơ thẩm vụ án số: 02/2017/TLST-DS ngày 09/02/2017. Kiện Tụng Đúng 2017. Theo Quyết định đưa vụ án ra Bản án số 55/2017/QĐXXST-DS ngày 21/8/2017 giữa các bên đương sự:
1. Người làm đơn: Ông Mai Văn A;
Địa chỉ: Thôn L, xã T, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế. Quà. 2. Bị đơn: Ông Lê Văn P;
Địa chỉ: xã T, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế; Quà. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ông P: Luật sư Nguyễn Hoài N, Công ty luật Hợp Danh T, thuộc Đoàn luật sư tỉnh Thừa Thiên Huế. Quà. 3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- UBND thị xã H, tỉnh Thừa Thiên Huế. Người đại diện: Ông Trần Hùng L, Trưởng phòng Tài nguyên và Môi trường TP H. Có mặt. - Bà Võ Thị P là vợ của ông Mai Văn A, trú tại: Thôn L, xã T, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế. Quà. - Bà Phan Thị Bích C, trú tại: Thôn A, xã T, thị xã H, tỉnh Thừa Thiên Huế. Có mặt.- Bà Nguyễn Thị T là vợ của ông Lê D, trú tại: Thôn T, xã T, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế. Vắng mặt. Ủy quyền cho bà Lê Thị T theo giấy ủy quyền ngày 28 tháng 5 năm 2014. - Bà Lê Thị T, trú tại: thôn T, xã T, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế. Quà. - Bà Lê Thị L, trú tại: thôn L, xã T, thị xã H, tỉnh Thừa Thiên Huế. Quà. NỘI DUNG TÌNH HUỐNG
Theo đơn khởi kiện ngày 09/02/2012 của ông Mai Văn A và các tài liệu, chứng cứ kèm theo, tóm tắt nội dung vụ án như sau:
- Nguyên đơn Ông Mai Văn A trình: Năm 2003, UBND huyện H (nay là Thành phố H) tổ chức đấu giá quyền sử dụng đất tại khu định cư xã T, Thành phố H, tỉnh Thừa Thiên, Huế. Ông A trúng một lô đất với giá 45.000.000 đồng thuộc thửa số H21, tờ bản đồ 02. Sau khi nộp đủ tiền, ông Mai Văn A và bà Võ Thị P đã được UBND huyện H đồng ý cấp quyền sử dụng đất Giấy chứng nhận quyền số W 564357 ngày 13/10/2003. Thực tế sau khi trúng đấu giá, ông A đi làm thủ tục nộp tiền thì phát hiện mảnh đất nói trên trước đây đã được ủy ban nhân dân xã T cấp cho ông Lê D ở thôn Thạch Hãn, xã T, H. trận lũ lớn năm 1999, nhà cửa bị cuốn trôi nên nhà nước có chủ trương tái định cư cho người dân vùng lũ. Do ông Đăng xây nhà nhưng không vào ở nên UBND xã T tiến hành đấu giá thu hồi đất, ông A có thông báo, UBND xã T và Phòng Tài nguyên Môi trường cho biết sẽ xử lý. phân chia đất hợp lý nhưng đến nay gia đình ông P và con trai ông Đặng vẫn đang sinh sống trên thửa đất đó. Ông A đã nhiều lần yêu cầu chính quyền can thiệp nhưng không có kết quả. Ngày 22/6/2011, ông Lê D chết, con ông Lê D là Lê Văn P tiếp tục sử dụng nhà đất của ông Lê D. Sau đó, ông Lê D. ra tòa buộc ông Lê Văn P phải trả lại đất cho gia đình, nếu không thì yêu cầu UBND thị xã H cấp thêm cho ông A một mảnh đất tại thôn Hòa An, xã thị xã T. H. - Về phía bị đơn, ông Lê Văn P trình bày: Sau trận lũ năm 1999, gia đình ông Lê Đ., bố đẻ của ông P, nằm trong vùng lũ, nhà cửa bị nước cuốn trôi, phải di dời nên Nhà nước phải di chuyển đất đã cấp vào khu định cư mới xã T theo quyết định số 812/QĐ-UB ngày 03/8/2000 của UBND tỉnh Thừa Thiên Huế và một khung nhà tiền chế cho cuộc sống. Sau khi có được đất, tháng 12/2001 gia đình ông xây dựng căn nhà cấp 4, diện tích 49m2, nhưng do không có điện nước nên mãi đến tháng 1/2003, gia đình ông mới dọn vào ở, đến tháng 1/2003 mới dọn vào ở. Ngày 15/8/2002, Uỷ ban nhân dân xã T ra Quyết định số 78/QĐ-UB thu hồi đất của ông Lê D tại phân khu mới của xã T với lý do ông không sử dụng diện tích đất được giao làm nhà ở. Sau khi UBND thị xã T ra thông báo thu hồi đối với phần đất mới cấp, gia đình ông Đăng đã khởi kiện nên ngày 28/3/2003, UBND thị xã T đã ra quyết định số 27/QĐ-UB về việc rút tiền. của Quyết định số 78/QĐ-UB ngày 18 tháng 5 năm 2002 nêu trên. Ngày 22/6/2011 ông Lê D. chết, sau đó gia đình ông P làm hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì được biết ông Mai Văn A đã giành được mảnh đất đang ở. Nay ông Lê Văn P yêu cầu Tòa án không chấp nhận yêu cầu của ông Mai Văn A. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Đại diện UBND xã H - Ông Trần Hùng L, Trưởng phòng Tài nguyên và Môi trường xã H, trình bày:
Về nguồn gốc thửa đất tranh chấp: Sau đợt lũ năm 1999, Nhà nước giao đất cho hộ ông Lê D. chứ không giao cho ông Lê Văn P, nhưng do thời gian sau đó, hộ ông Thế D và các hộ dân khác (gồm 6 hộ) không sử dụng đất, UBND xã T lập danh sách các hộ không sử dụng đất đưa vào quỹ đất đấu giá để tổ chức đấu giá trình UBND thành phố H ban hành cấp giấy chứng nhận theo quy định. Thời điểm năm 2003, UBND xã H cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Mai Văn A trên cơ sở kết quả đấu giá do UBND xã T đưa ra là hoàn toàn đúng quy định của pháp luật vì là có thật. Phần đất này hộ gia đình ông Đăng không sử dụng. Trong trường hợp ông Lê Văn P chứng minh được nguồn gốc thửa đất đang tranh chấp thuộc quyền sở hữu hợp pháp của ông P thì yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật. - Bà Võ Thị P trình bày: bà chấp nhận yêu cầu của ông Mai Văn A, buộc gia đình ông Lê Văn P phải trả lại quyền sử dụng đất cho gia đình ông và cho ông A. - Bà Phan Thị Bích C, Nguyễn Thị T, Lê Thị T, Lê Thị L đều nhất trí với quan điểm của Bị đơn và đề nghị Tòa án không chấp nhận yêu cầu của ông Mai Văn A. 02/2014/DSST ngày 06/3/2014 Tòa án nhân dân thành phố H quyết định:
Xét điều 256 Bộ luật dân sự; Khoản 1 Điều 136 Luật Đất đai; Khởi kiện: Buộc ông Lê Văn P và bà Phan Thị Bích C trả lại cho ông Mai Văn A và bà Võ Thị P diện tích thực đo theo hồ sơ kỹ thuật do Bộ TNMT lập ngày 08/10/2010 Tài nguyên và Môi trường tỉnh Thừa Thiên Huế là 396,1 m2 tại thửa đất số H21, tờ bản đồ số 02 thuộc khu định cư xã T, thành phố H. Ngày 13/10/2003 của UBND huyện H (nay thành phố H). Ngày 31/3/2014, ông Lê Văn P, bà Phan Thị Bích C, bà Nguyễn Thị T có đơn kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án xét xử do có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng và giám định của Tòa án cấp phúc thẩm. Kháng cáo bằng chứng khách quan. Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 15/2016/DS-PT ngày 14/4/2016, Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế quyết định:
Căn cứ vào khoản 3 Điều 275 và khoản 1 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự;
Kết án: Hủy bản án sơ thẩm số 02/2014/DSST ngày 06/3/2014 của Tòa án nhân dân thành phố H. Chuyển hồ sơ cho Tòa án nhân dân thành phố H phục hồi theo trình tự sơ thẩm. Ngày 21/11/2016, ông Lê Văn P có đơn yêu cầu phản tố yêu cầu Tòa án hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số W 564357 ngày 13/10/2003 mà UBND xã H đã cấp cho ông Mai Văn. A và bà Võ Thị P đối với phần đất được giao cho gia đình bà theo Quyết định số 812/QĐ-UB ngày 03/8/2000 của UBND tỉnh Thừa Thiên Huế. Ngày 25/11/2016, Tòa án nhân dân thành phố H ra quyết định chuyển vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế thụ lý giải quyết theo thẩm quyền. Đại diện Viện kiểm sát có quan điểm về việc giải quyết vụ án như sau:
Về việc chấp hành pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký được thực hiện đầy đủ, đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Các bên liên quan cũng đã thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ của mình. Về nội dung: Đề nghị Tòa án cấp sơ thẩm: không chấp nhận yêu cầu của ông Mai Văn A đòi quyền sử dụng đất của ông Lê Văn P. Huỷ bỏ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số W 564357 ngày 13/10/2003 của UBND thành phố H đã cấp cho vợ chồng ông Mai Văn A và bà Võ Thị P. NHẬN XÉT CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra tại tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của kiểm sát viên và luật sư bào chữa về quyền và lợi ích hợp pháp của các bên liên quan, thẩm phán kết luận:
[Đầu tiên]. Về thủ tục: Do ông Lê Văn P yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số W 564357 ngày 13/10/2003 của Ủy ban nhân dân thành phố H cấp cho ông Mai Văn A và bà Võ Thị P. Theo quy định tại Điều 34 BLDS, việc Tòa án nhân dân thành phố H quyết định chuyển vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế giải quyết là phù hợp với thẩm quyền giải quyết vụ án của Tòa án nhân dân cấp tỉnh trong vụ án đó. việc hủy quyết định cá biệt được quy định tại Điều 4, Điều 34, Điều 41 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015 và Điều 31 của Luật tố tụng hành chính 2015. Vì vậy, TAND tỉnh Thừa Thiên HuếThừa Thiên Huế đã thụ lý, giải quyết vụ án theo đến pháp luật. Trường hợp này bị đơn không có yêu cầu phản tố nên tòa xét xử phải rút kinh nghiệm. [2]. Về nội dung:
Xét yêu cầu của ông Mai Văn A và yêu cầu của ông Lê Văn P yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số W 564357 ngày 13 tháng 10 năm 2003 của Ủy ban nhân dân huyện H cấp cho ông Mai Văn . A và chị Võ Thị P, Hội đồng xét xử kết luận:
Về phạm vi yêu cầu của bị đơn trong vụ án: Ông Lê Văn P chỉ yêu cầu Tòa án nhân dân có thẩm quyền hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số W 564357 ngày 13/10/2003 của UBND huyện H đã cấp cho ông Mai Văn A và bà Võ Thị P nên Tòa án chỉ xem xét và quyết định trong khuôn khổ yêu cầu của bị đơn. Về nguồn gốc đất tranh chấp: Thửa đất số H21, tờ bản đồ số 02 tại khu định cư xã T, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế nằm trong khu quy hoạch sử dụng đất nông thôn được phê duyệt theo Quyết định số 812/QĐ- UB ngày 03/8/2000 của UBND tỉnh Thừa Thiên Huế về việc phê duyệt quy hoạch khu tái định cư Liên Bang, trong đó hộ ông Lê D (là bố ông Lê Văn P) có được một lô đất . mảnh đất nói trên và một căn nhà khung tiền chế. Năm 2001, ông Lê D tiến hành xây dựng nhà cấp 4 trên diện tích đất được giao, nhưng do không có điện, nước nên gia đình ông đã chuyển ra ở riêng năm 2003. Ngày 15/8/2002, UBND xã T ra quyết định Quyết định số 78/QĐ-UB thu hồi đất của ông Lê D tại phân khu mới xã T với lý do ông không sử dụng đất được giao để làm nhà ở. Tuy nhiên, ngày 28/3/2003, Uỷ ban nhân dân xã T ra Quyết định số 27/QĐ-UB thu hồi Quyết định số 78/QĐ-UB ngày 18/5/2002. Như vậy, mảnh đất này thuộc quyền của sử dụng hợp pháp của hộ ông Lê D. Từ năm 2002 đến nay, UBND các cấp không có quyết định nào khác về việc thu hồi đất của hộ ông Lê D. Do đó, đất Nhà nước giao cho ông D. .Lê D theo Quyết định số 812/QĐ-UB ngày 03/8/2000 của UBND tỉnh Thừa Thiên Huế vẫn thuộc quyền quản lý và sử dụng hợp pháp. D. Năm 2002, Hội đồng đấu giá đất xã T tổ chức đấu giá quyền sử dụng đất đối với ô đất số H21, tờ bản đồ số 02 tại khu dân cư xã T, huyện H, tỉnh Thừa Thiên Huế và được sự chấp thuận của Hội đồng đấu giá đất. Hội đồng nhân dân. UBND tỉnh Thừa Thiên Huế Nhân dân xã T công nhận kết quả đấu giá. Trên cơ sở này, UBND quận H (nay là thành phố H) đã cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số W 564357 ngày 13/10/2003 cho ông Mai Văn A là người trúng đấu giá lô đất nói trên. Việc UBND xã T tổ chức bán đấu giá đất cấp cho ông Lê D và UBND xã H cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Mai Văn A là trái pháp luật. quyền quản lý, sử dụng đất hợp pháp của hộ ông Lê D. Vì vậy, hội đồng xét xử xét thấy cần thiết tuyên hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số W 564357 ngày 13/10/2003 mà UBND huyện H cấp. cấp cho ông Mai Văn A và bà Võ Thị P theo yêu cầu của ông Mai Văn A và bà Võ Thị P. Việc ông Lê Văn P bị kiện là chấp hành đúng quy định của pháp luật. Năm 2011, ông Lê Đ qua đời, vợ chồng ông Đăng gồm bà Nguyễn Thị T, ông Lê Văn P, bà Phan Thị Bích C, bà Lê Thị Thanh và bà Lê Thị L sinh sống tại ông Lê D hiện đang tiếp tục quản lý, sử dụng lô đất nêu trên có đơn yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế bác yêu cầu khởi kiện của ông Mai Văn A và hủy bỏ giấy chứng nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng đất số. 564357 ngày 13/10/2003 của UBND huyện H cấp cho ông Mai Văn A và bà Võ Thị P. Hội đồng xét xử Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế đã xét yêu cầu của bị đơn và những người khác. quyền lợi, nghĩa vụ liên quan mà bà T, bà C, bà Thanh, bà L có căn cứ và phải được chấp nhận. Do vậy, việc ông Mai Văn A yêu cầu buộc ông Lê Văn P phải trả lại quyền sử dụng đất tại thửa số H21, tờ bản đồ số 02 thuộc địa phận, vị trí xã T, thị xã H. Tỉnh Thừa Thiên Huế theo đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế được thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật. Về án phí dân sự sơ thẩm: Ông Mai Văn A phải chịu theo quy định của pháp luật. Vì những lý do trên,
Căn cứ Điều 264, Điều 266 và Điều 267 của Bộ luật tố tụng dân sự;
PHÁN QUYẾT
Áp dụng Điều 105, 115 Bộ luật Dân sự năm 2015; Mục 100, Mục 106 Luật đất đai 2013; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về Án phí, lệ phí Tòa án;
Bản án:
1. Chấp nhận yêu cầu của Bị đơn là ông Lê Văn P. Huỷ bỏ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số W 564357 ngày 13/10/2003 do UBND huyện H (nay là thị xã H) A cấp cho ông Mai Văn và bà Mai Văn P. Võ Thị P, thửa đất số H21, tờ bản đồ số 02, diện tích 403 m2 tại khu định cư xã T, thị xã H, tỉnh Thừa Thiên Huế. 2. Nguyên đơn khởi kiện ông Mai Văn A về việc buộc ông Lê Văn P phải trả lại quyền sử dụng đất đối với thửa đất số H21, tờ bản đồ số 02, diện tích 403 m2 nằm trong khu vực được chỉ định. xã T, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế. 3. Về án phí dân sự sơ thẩm: Ông Mai Văn A phải nộp 300.000 đồng nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 1.125.000 đồng tại Biên lai thu số: 004275 ngày 16/3/2012 gửi Chi cục thi hành án dân sự thành phố H. Số tiền còn lại ông Mai Văn A đã nhận tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố H là 825.000 đồng. Hoàn trả số tiền tạm ứng án phí mà bị đơn Lê Văn P yêu cầu với số tiền 200.000 đồng tại Biên lai số 009567 ngày 23/11/2016 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố H, Thừa Thiên Tỉnh. Màu sắc. Về chi phí giám định đất đai tại Bản án số 02/2014/DSST ngày 06/3/2014 của Tòa án nhân dân xã H:
Chi phí giám định với số tiền là 800.000 đồng, ông Mai Văn A chịu 400.000 đồng và ông Lê Văn P chịu 400.000 đồng. Các bên đã thanh toán đầy đủ. Về chi phí giám định tại chỗ: Ông Lê Văn P phải chịu 800.000 đồng, nhưng đã được ghi nợ tạm ứng 1.500.000 đồng ngày 21/8/2017 đã nộp cho Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông Lê Văn P đã được Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế bồi thường số tiền 700.000 đồng. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành đúng quy định tại Mục 2 Luật thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền đồng ý cho thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự và Điều 7a, 7b Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân sự năm 2014; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự. Toà án cấp sơ thẩm thông báo công khai cho các đương sự có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án.
Nội dung bài viết:
Bình luận