Tuyển tập bản án tuyên bố hợp đồng vô hiệu

Tuyển tập bản án tuyên bố hợp đồng vô hiệu là tập hợp những bản án tiêu biểu của Tòa án nhân dân các cấp về việc tuyên bố hợp đồng vô hiệu. Đây là nguồn tài liệu pháp lý vô cùng quý giá, giúp các cá nhân, tổ chức tham khảo, tra cứu và vận dụng pháp luật hiệu quả trong các giao dịch dân sự.

Tuyển tập bản án tuyên bố hợp đồng vô hiệu

Tuyển tập bản án tuyên bố hợp đồng vô hiệu

1. Bản án số 06/2023 ngày 11/01/2023 

Bản án về yêu cầu tuyên bố hợp đồng thuê nhà vô hiệu và giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu số 06/2023 ngày 11/01/2023 

- Cấp xét xử: Phúc thẩm

- Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội

- Nguyên đơn: Công ty TNHH Đầu tư và Phát triển Lâm Nông nghiệp Việt Nam

- Bị đơn: Công ty TNHH Thương mại An và Huy

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Công ty TNHH Thăng Long

- Trích dẫn nội dung: Công ty TNHH Thăng Long (Gọi tắt là Công ty Thăng Long) là Chủ Đầu tư Khu nhà ở cho cán bộ  chiến sĩ Phòng cảnh  sát  trật  tự (Gọi  tắt là Chung cư cảnh sát 113), địa  chỉ  số  67,  phố  Vạn Phúc, phường  Liễu  Giai,  quận Ba Đình, thành phố Hà Nội. Công ty TNHH Thương mại An và Huy (Gọi tắt là Công ty An Huy) là Nhà đầu tư đã nhận chuyển nhượng một phần diện tích ở tầng 1 và tầng lửng Khu nhà nêu trên từ Công ty Thăng Long. 

Ngày 29/05/2017 Công ty TNHH Đầu tư và Phát triển Lâm Nông nghiệp Việt Nam (Gọi tắt là Công ty Lâm Nông Nghiệp) và Công ty An Huy đã ký kết Hợp đồng thuê nhà số 06.2017/HĐKT(Gọi tắt Hợp đồng số 06) . Nội dung hợp đồng  thể  hiện  việc Công ty Lâm Nông Nghiệp thuê 600m2 diện  tích  tầng  1  và  tầng lửng của Chung cư cảnh sát 113. Thời gian thuê là 5 năm (Bắt đầu tính tiền thuê từ ngày 15/7/2017 đến ngày 15/7/2022). Hợp đồng còn quy định chi tiết về giá thuê, phương thức thanh toán, quyền và trách nhiệm của mỗi bên. Tại  thời điểm ký kết hợp đồng, Công ty An Huy không thông tin gì về việc vi phạm an toàn phòng cháy, chữa cháy của sàn giao dịch mà Công ty Lâm Nông Nghiệp có ý định thuê. 

Đến tháng 04/2018, Công ty Lâm Nông Nghiệp mới  phát  hiện sàn giao dịch thuê của Công ty An Huy chưa hoàn tất thủ tục về phòng cháy, chữa cháy. Công ty Lâm Nông Nghiệp có công văn đề nghị Công ty An Huy cung cấp các tài liệu về việc phòng cháy, chữa cháy. Tuy nhiên Công ty An và Huy đã không đáp ứng  theo yêu cầu của Công ty Lâm Nông Nghiệp mà còn đẩy trách nhiệm sang chủ đầu tư là Công ty Thăng Long. Vì vậy, Công ty Lâm Nông Nghiệp đã gửi đến thông báo về việc chấm dứt hợp đồng. Khi nhận được thông báo về việc  chấm dứt hợp đồng thuê, Công ty An Huy mời thừa phát lại để niêm phong và di chuyển toàn bộ hàng hóa của Công ty Lâm Nông Nghiệp và gửi vi bằng cho Công ty Lâm Nông Nghiệp còn hàng hóa của Công ty Lâm Nông Nghiệp bị chuyển đi đâu không rõ. 

Công ty Lâm Nông Nghiệp khởi kiện đề nghị Tòa án tuyên  bố  hợp đồng  thuê  nhà  giữa Công ty An Huy và Công ty Lâm Nông Nghiệp vô hiệu và giải quyết hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu.

TAND Thành phố Hà Nội tuyên bố: Hợp đồng  thuê  nhà  số 06.2017/HĐKT ngày 29/5/2017 giữa Công ty TNHH Đầu tư và Phát  triển Lâm Nông Nghiệp  Việt Nam và Công ty TNHH Thương mại An và Huy vô hiệu. Công ty TNHH Thương mại An và Huy phải hoàn trả lại cho Công ty TNHH Đầu tư và Phát  triển Lâm Nông nghiệp Việt Nam số tiền đã đặt cọc ; hoàn trả lại  số  tiền thuê  nhà đã trả….

2. Bản án về tranh chấp yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu; đòi tài sản số 39/2024/DS-PT

Bản án về về tranh chấp yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu; đòi tài sản số 39/2024/DS-PT

- Cấp xét xử: Phúc thẩm

- Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân Tỉnh An Giang

- Nguyên đơn: Ông Vi Văn S, sinh năm 1961

- Bị đơn: Ông Vi Kiến P, sinh năm 1969

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:  Sở T3; 

Ông Vi Kiến H sinh năm 1963; 

Bà Vi Thị Nhật H1 sinh năm 1997; 

Bà Vi Thị M sinh năm 1958; 

Bà Vi Xiếu K sinh năm 1965; 

Đồng thừa kế của ông Vi H2 gồm: Lương Thị V, Vi Tú A, Vi Kiến H3, Vi Tú O; 

Bà Nguyễn Thị T (T1) sinh năm 1978

- Trích dẫn nội dung: Ông Vi C (sinh năm 1922, chết năm 1984) và bà Thái Thị M1 (sinh năm 1930, chết năm 2008) có tạo lập được một số tài sản, trong đó có căn nhà gắn liền với diện tích đất 90,8m2 thuộc thửa đất số 80 Tỉnh An Giang đã được Ủy ban nhân dân huyện T cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H0063Kb ngày 18/8/2005 cho bà Thái Thị M1 đứng tên chủ sử dụng. Lúc cụ M1 lâm trọng bệnh, mổ mắt không thấy đường, Ông Vi Văn S cho rằng ông Vi Kiến P tự ý xác lập Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất ngày 04/02/2008 không đúng quy định của pháp luật. Do đó, Ông Vi Văn S khởi kiện yêu cầu tuyên bố Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa bà Thái Thị M1 và ông Vi Kiến P được Ủy ban nhân dân thị trấn T chứng thực số 13 ngày 04/02/2008 vô hiệu. TAND Tỉnh An Giang tuyên không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Vi Văn S về yêu cầu tuyên Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa bà Thái Thị M1 và ông Vi Kiến P được Ủy ban nhân dân thị trấn (nay là phường ) chứng thực số 13 ngày 04/02/2008 vô hiệu.

3. Bản án về yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu số 17/2024/DS-PT

Bản án về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 17/2024/DS-PT ngày 10/01/2024

- Cấp xét xử: Phúc thẩm

- Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân Tỉnh Đắk Lắk

- Nguyên đơn: Ông Phạm Xuân N, sinh năm 1958 và bà Vi Thị D, sinh năm 1961

- Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Ng, sinh năm 1978

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Ủy ban nhân dân xã B, thị xã B, tỉnh Đắk Lắk

- Trích dẫn nội dung: Ngày 19 tháng 12 năm 2021, vợ chồng ông N, bà D và bà Nguyễn Thị Ng ký kết Hợp đồng đặt cọc về việc mua bán nhà, đất và các tài sản liên quan đến đất, thông tin lô đất đặt cọc, thửa đất số 398, tờ bản đồ số 27 (hiện nay đã cấp đổi thành thửa đất số 207, tờ bản đồ số 71 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số: DG 568522 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đắk Lắk, cấp ngày 29 tháng 8 năm 2022 cho ông N, bà D.

Ngày 19 tháng 12 năm 2021, bà Ng đã đặt cọc số tiền 150.000.000 đồng cho ông N,  bà D. Đến ngày 09 tháng 9 năm 2022, bà Ng tiếp tục trả cho ông N số tiền 200.000.000 đồng. Theo như thỏa thuận sau khi công chứng, bà Ng sẽ thanh toán số tiền còn lại. Tuy nhiên, ngày 19 tháng 9 năm 2022, sau khi công chứng hợp đồng chuyển nhượng bà Ng đã không thanh toán cho ông N, bà D số tiền còn lại. Nay ông N, bà D yêu cầu Tòa án giải quyết: Huỷ hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số: 305/2022 TP/CC –SCT/HĐGD ký giữa vợ chồng ông N, bà D và bà Ng được Uỷ ban nhân dân xã B chứng thực ngày 19 tháng 9 năm 2022. TAND Tỉnh Đắk Lắk tuyên chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Ông Phạm Xuân N, bà Vi Thị D hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số: 305/2022, quyển số 01/2022 TP/CC-SCT/HĐGD được Uỷ ban nhân dân xã Bình Thuận, thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk chứng thực ngày 19 tháng 9 năm 2022, giữa bên chuyển nhượng là ông Phạm Xuân N, bà Vi Thị D với bên nhận chuyển nhượng là bà Nguyễn Thị Ng vô hiệu.

4. Bản án số 35/2019/DS-PT ngày 27/3/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng

Bản án về tranh chấp hợp đồng dân sự có đặt cọc số 35/2019/DS-PT ngày 27/3/2019 

- Cấp xét xử: Phúc thẩm

- Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân Tỉnh Lâm Đồng

- Nguyên đơn: Bà Tô T H, sinh năm: 1971

- Bị đơn:  Ông Nguyễn V H1, sinh năm: 1982 và Ông Kiều V D, sinh năm: 1990;

- Trích dẫn nội dung: Ngày 27/4/2018 sau khi được giới thiệu lô đất thuộc thửa 2143 tờ bản đồ số 16 (46e) có diện tích 126,67m2 tọa lạc tại Đtt, Phường 8, thành phố ĐA, tỉnh Lâm Đồng của ông Kiều V D. Bà H đã gặp ông Nguyễn V H1 là người được ông D ủy quyền chuyển nhượng quyền sử dụng đất, hai bên thỏa thuận việc chuyển nhượng và lập Hợp đồng đặt cọc chuyển nhượng quyền sử dụng đất cùng ngày với nội dung bên nhận đặt cọc là ông Nguyễn V H1 và bên đặt cọc là bà Tô T H, số tiền đặt cọc là 200.000.000đ. Đến khoảng 15 giờ 20 phút cùng ngày khi ông D mang bản chính Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lên, bà đối chiếu với lô đất mà bà S giới thiệu thì không đúng vị trí. Do có sự nhầm lẫn nên bà đã yêu cầu ông H1 hủy việc đặt cọc và trả lại tiền cọc đã nhận nhưng ông H1 không đồng ý vì cho rằng ông chỉ là người nhận cọc thay cho ông D, đề nghị bà H liên hệ với chủ đất là ông D vì tiền cọc đã đưa toàn bộ số tiền nói trên cho ông D. 

Về phía ông Kiều V D thì lô đất mà bà H cho rằng khi bà S giới thiệu không trùng khớp với vị trí lô đất của ông nên không muốn nhận chuyển nhượng nữa là do lỗi của bà H vì bà H có nhu cầu nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất thì phải có trách nhiệm tìm hiểu, việc nhầm lẫn là do bà H nên không đồng ý trả lại tiền cho nguyên đơn, tuy nhiên trên tinh thần thương lượng có đề nghị hỗ trợ cho bà H 50% số tiền với điều kiện bà H phải viết đơn xin lỗi ông H1 và bù đắp những thiệt hại mà bà H đã gây ra cho bên chuyển nhượng.

Bà H không đồng ý và khởi kiện yêu cầu  tuyên bố giao dịch đặt cọc chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 27/4/2018 giữa bên nhận đặt cọc ông Nguyễn V H1 và bên đặt cọc bà Tô T H với số tiền 200.000.000đ là vô hiệu. TAND Tỉnh Lâm Đồng tuyên chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Tô T H đối với ông Nguyễn V H1, ông Kiều V D về việc: “Tranh chấp Hợp đồng dân sự có đặt cọc”. Buộc ông Kiều V D có trách nhiệm trả cho bà Tô T H số tiền 190.000.000đ 

5. Bản án số 207/2019/DSPT ngày 21/3/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh

Bản án về tranh chấp hợp đồng đặt cọc chuyển quyền sử dụng đất  số 207/2019/DSPT ngày  21/03/2019

- Cấp xét xử: Phúc thẩm

- Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh

- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Đình Q, sinh năm 1986

- Bị đơn: Bà Phí Thị X, sinh năm: 1962

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: 

Bà Nguyễn Thanh L3, sinh năm: 1986.

Ông Bùi Văn Đ1, sinh năm: 1960.

Ông Nhâm Đức T1, sinh năm: 1984.

- Trích dẫn nội dung:

Ngày 26/11/2017, ông Nguyễn Đình Q và vợ là bà Nguyễn Thanh L3 được bà Hoàng Thị H môi giới mua thửa đất số 735, tờ bản đồ số 24 có diện tích 80,8 m2 tại địa chỉ phường TB, Quận O, Thành phố Hồ Chí Minh của bà Phí Thị X. Vợ chồng ông đã coi bản phô tô giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và được bà H dẫn đi coi lô đất vào buổi tối, vợ chồng ông đồng ý mua với giá 2.490.000.000 đồng.

Ngày 27/11/2017, vì ông bận việc nên chỉ có bà L3 ký hợp đồng đặt cọc với bà X và đặt cọc cho bà X số tiền 100.000.000 đồng. Khi ký hợp đồng đặt cọc, có mặt Ông Nhâm Đức T1 và bà Hoàng Thị H là 02 người môi giới bán đất cho bà X. Hợp đồng đặt cọc lập thành 02 bản, vợ chồng ông giữ 1 bản và bà X giữ 1 bản.

Ngày 18/12/2017, hai bên ra ký hợp đồng chuyển nhượng. Tại Phòng công chứng, cũng có mặt Ông T1 và bà H. Lúc này, bà X có nói trên đất có vườn chuối, ông thấy lạ vì khi bà H dẫn đi coi thì không có vườn chuối. Ông yêu cầu được đi coi lại thì Ông T1 chở ông đi và không đúng lô đất mà lần trước bà H dẫn ông đi coi, lô đất này cách lô đất lần trước 02 đến 03 lô, ông không nhớ rõ, lô đất bà H dẫn đi coi ở phía ngoài, lô đất này ở phía trong, cùng dãy. Khi quay lại Phòng công chứng, ông không đồng ý mua, bà H có xác nhận là do trời tối bà nhớ nhầm nên chỉ sai lô đất. Ngày hôm sau, bà H xác nhận vào bản hợp đồng đặt cọc mà ông giữ cam kết bà X sẽ trả lại tiền cọc cho ông trong vòng 30 ngày, lúc này không có mặt bà X, chỉ có Ông T1. Ông T1 xác nhận đã đưa cho bà H tiền môi giới. Đến khoảng ngày 04/01/2018, bà X trả cho ông được 50.000.000 đồng tiền cọc.

Tại đơn khởi kiện, ông Q yêu cầu hủy hợp đồng đặt cọc nhà đất ngày 27/11/2017 giữa ông và bà X, yêu cầu bà X trả số tiền cọc còn lại 50.000.000 đồng và bồi thường 100.000.000 đồng. TAND Thành phố Hồ Chí Minh tuyên hợp đồng đặt cọc nhà đất ngày 27/11/2017 giữa ông Nguyễn Đình Q và bà Phí Thị X vô hiệu. Buộc bà Phí Thị X có trách nhiệm trả cho ông Nguyễn Đình Q và bà Nguyễn Thanh L3 số tiền 50.000.000 đồng (năm mươi triệu đồng).

Hy vọng qua bài viết, Công ty Luật ACC đã giúp quý khách hàng hiểu rõ hơn về vấn đề tuyển tập bản án tuyên bố hợp đồng vô hiệu. Đừng ngần ngại hãy liên hệ với Công ty Luật ACC nếu quý khách hàng có bất kỳ thắc mắc gì cần tư vấn giải quyết.

Nội dung bài viết:

    Đánh giá bài viết: (269 lượt)

    Để lại thông tin để được tư vấn

    Họ và tên không được để trống

    Số điện thoại không được để trống

    Số điện thoại không đúng định dạng

    Email không được để trống

    Vấn đề cần tư vấn không được để trống

    Bài viết liên quan

    Phản hồi (0)

    Hãy để lại bình luận của bạn tại đây!

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo