Các dạng bài tập tình huống Luật Cạnh tranh có đáp án

Pháp luật cạnh tranh bao gồm các quy phạm pháp luật điều chỉnh hành vi cạnh tranh giữa các chủ thể kinh doanh trên thương trường đồng thời bao gồm cả các quy định đảm bảo thực thi luật cạnh tranh trong thực tế. Hãy cùng ACC tìm hiểu các thông tin về Các dạng bài tập tình huống Luật Cạnh tranh có đáp án thông qua bài viết dưới đây.

Các dạng bài tập tình huống Luật Cạnh tranh có đáp án

Các dạng bài tập tình huống Luật Cạnh tranh có đáp án

1. Khái niệm pháp luật cạnh tranh

Pháp luật cạnh tranh bao gồm các quy phạm pháp luật điều chỉnh hành vi cạnh tranh giữa các chủ thể kinh doanh trên thương trường đồng thời bao gồm cả các quy định đảm bảo thực thi luật cạnh tranh trong thực tế. Đó là các quy định về; Tổ chức và hoạt động của cơ quan nhà nước thi hành luật cạnh tranh; trình tự thủ tục xử lí vụ việc cạnh tranh; các biện pháp xử lí vi phạm pháp luật về cạnh tranh.

Ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển và có hệ thống pháp luật phát triển như Anh, Pháp, Mỹ nguồn của pháp luật cạnh tranh còn bao gồm cả thực tiễn xét xử của toà án, của các cơ quan cạnh tranh và các báo cáo, luận chứng trong quá trình xây dựng pháp luật, các lí thuyết trong lĩnh vực cạnh tranh được công nhận rộng rãi.

Xét về nội dung điều chỉnh, pháp luật cạnh tranh điều chỉnh những quan hệ sau:

- Quan hệ cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh trên thị trường.

Đây là nhóm quan hệ chủ yếu được điều chỉnh bởi pháp luật cạnh tranh. Ở nhóm qúan hệ này, pháp luật cạnh tranh sẽ can thiệp và định hướng công khai đối với các hành vi cạnh tranh của các chủ thể, buộc các chủ thể phải lựa chọn cách xử sự hợp lí nhất tuân theo trật tự mà pháp luật mong muốn. Để điều chỉnh nhóm quan hệ này, pháp luật cạnh tranh ở nhiều quốc gia trên thế giới thường được chia thành hai lĩnh vực khác biệt: Pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh và pháp luật kiểm soát hành vi hạn chế cạnh tranh để điều chỉnh hai nhóm hành vi là hành vi cạnh tranh không lành mạnh và hành vi hạn chế cạnh tranh. Sở dĩ có sự phân biệt như vậy là do hai nhóm hành vi cạnh tranh này có sự khác nhau về tính chất, về tác hại tiêu cực của chúng đối với môi trường cạnh tranh nên sự điều chỉnh của pháp luật đối với hai nhóm này cũng không thể giống nhau.

Để trốn tránh áp lực do cạnh tranh đem lại, các doanh nghiệp có thể thực hiện các hành vi làm giảm sức ép cạnh tranh và dẫn đến triệt tiêu cạnh tranh như thoả thuận, câu kết giữa các đối thủ kinh doanh, mua bán sáp nhập giữa các doanh nghiệp để tạo vị thế thống lĩnh thị trường hoặc các doanh nghiệp hiện đã có vị trí thống lĩnh trên thị trường lạm dụng sức mạnh để duy trì vị trí của mình. Các hành vi hạn chế cạnh tranh có thể gây hậu quả làm sai lệch cấu trúc thị trường, làm thiệt hại cho sự phát triển toàn bộ nền kinh tế của một quốc gia. Bởi vậy, các hành vi hạn chế cạnh tranh phải bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền đề nghị điều tra và bị xử lí bằng chế tài nghiêm khắc. Với mục đích kiểm soát những hành vi có thể làm giảm sức ép cạnh tranh, cản trở cạnh tranh và để bảo vệ cơ cấu, tương quan cạnh tranh trên thị trường, pháp luật kiểm soát hành vi hạn chế cạnh tranh bao gồm các quy định:

1) Các quy định để nhận diện ra các hành vi hạn chế cạnh tranh như xác định thoả thuận hạn chế cạnh tranh bao gồm những loại thoả thuận nào, thế nào là doanh nghiệp ở vào vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền;

2) Quy định các hành vi hạn chế cạnh tranh bị cấm, những trường hợp được hưởng miễn trừ, thủ tục hưởng miễn trừ.

Bên cạnh hành vi có hậu quả đẩy lùi cạnh tranh, dẫn đến thủ tiêu cạnh tranh thì trong quá trình cạnh tranh, các doanh nghiệp có thể thực hiện các hành vi nhằm mục đích cạnh tranh nhưng đi ngược lại với quy tắc xử sự chung được thừa nhận trong kinh doanh, trái với thông lệ thiện chí, trung thực trong kinh doanh gây thiệt hại cho đổi thủ cạnh tranh và người tiêu dùng. Nhóm quy định pháp luật điều chỉnh hành vi nhằm đẩy cạnh tranh lên quá mức vượt khỏi các giới hạn có thể chấp nhận được của thị trường và của xã hội được gọi là pháp luật chống hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Mục đích của pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh là cấm không cho phép chủ thể kinh doanh thực hiện các hành vi đi ngược với đạo đức tập quán kinh doanh tốt đẹp, gây tổn hại cho đối thủ cạnh tranh và người tiêu dùng vì mục tiêu cạnh tranh. Cạnh tranh không lành mạnh chỉ bị chống hay bị trừng trị khi đối thủ cạnh tranh bị xâm phạm lợi ích tự khiếu nại nhờ sự can thiệp của pháp luật. Do đó ở nhiều nước, hành vi cạnh tranh không lành mạnh bị xử lí bằng phương pháp dân sự và chế tài dân sự (Pháp luật của một số nước như Ấn Độ, Malaysia, Indonesia điều chinh những hành vi cạnh tranh của doanh nghiệp trái với nguyên tắc thiện chí trung thực làm ảnh hường tới lợi ích cùa người tiêu dùng trong Luật bảo vệ người tiêu dùng còn Luật cạnh ưanh của họ chi điều chinh những hành vi hạn chế cạnh tranh. Ở một số nước khác như Pháp, một số hành vi cạnh tranh không lành mạnh xâm phạm lợi ích của đối thủ cạnh tranh có thể được điều chinh trong Bộ luật dân sự hay Luật thương mại).

- Quan hệ giữa cơ quan thi hành luật cạnh tranh với các chủ thể kinh doanh khi họ thực hiện các hành vi hạn chế cạnh tranh hoặc hành vi cạnh tranh không lành mạnh.

Để đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh, trong điều .kiện nhà nước quản lí nền kinh tế, cơ quan quản lí nhà nước phải thực hiện chức năng điều tiết, kiểm soát các quan hệ cạnh tranh trên thị trường. Để điều chỉnh nhóm quan hệ này, pháp luật cạnh tranh quy định rõ về khuôn khổ, nguyên tắc, cơ chế áp dụng và thực thi pháp luật, các biện pháp chế tài đối với hành vi vi phạm pháp luật về cạnh tranh, hiệu lực của các quyết định xử lí vi phạm, sự phối hợp của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc giám sát, kiểm soát và xử lí các hành vi vi phạm pháp luật về cạnh tranh.

2. Đặc trưng cơ bản của pháp luật cạnh tranh

Pháp luật cạnh tranh không phải là loại pháp luật có mục tiêu trực tiếp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp cũng như của toàn bộ nền kinh tế của mỗi quốc gia. Pháp luật cạnh tranh có mục tiêu ngăn ngừa và xử lí các hành vi cạnh tranh trái pháp luật, trái đạo đức và tập quán kinh doanh. Theo nghĩa đó, pháp luật cạnh tranh có mục tiêu là thực hiện việc duy trì năng lực cạnh tranh thực tế của các doanh nghiệp.

Khác với các lĩnh vực pháp luật về kinh tế khác, pháp luật cạnh tranh có những đặc trưng cơ bản sau:

Thứ nhất, pháp luật cạnh tranh chỉ quy định các hành vi bị ngăn cấm trong hoạt động cạnh tranh chứ không hướng dẫn các chủ thể kinh doanh cần làm những gì hoặc phải làm gì trong quá trình cạnh tranh trên thị trường (nói cách khác, pháp luật cạnh tranh có tính tiếp cận từ mặt trái).

Trong khi các lĩnh vực pháp luật về kinh tế khác, quy định cụ thể các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong hoạt động kinh doanh (pháp luật mang tính mở đường) thì pháp luật cạnh ttanh chỉ khoanh vùng những hành vi bị cấm trong hoạt động cạnh tranh chứ không hướng dẫn các doanh nghiệp (là đối tượng bị điều chỉnh) sẽ làm những gì để cạnh tranh bởi vậy, pháp luật cạnh tranh thuộc loại pháp luật mang tính "can thiệp" hay "ngăn cản".

Thứ hai, pháp luật cạnh tranh thường đặt ra các điều khoản mở và những quy định miễn trừ cho phép cơ quan thi hành luật cạnh tranh có thể áp dụng pháp luật một cách linh hoạt.

Pháp luật cạnh tranh không lành mạnh thường đặt ra các điều khoản mở để từ đó xác định các hành vi cạnh tranh không lành mạnh không được thực hiện. Bởi cạnh tranh chính là hoạt dộng kinh doanh của doanh nghiệp trên thương trường nên rất đa dạng, phong phú. Có những hành vi ở thời điểm này được xác định là gây ảnh hưởng xấu tới môi trường cạnh tranh lành mạnh nhưng ở thời điểm, hoàn cảnh khác thì hành vi đó lại không xâm hại đến lợi ích công và không đáng bị ngăn cản. Điều này cho phép cơ quan thực thi luật cạnh tranh có thể căn cứ vào dấu hiệu về các hành vi cạnh tranh không lành mạnh được quy định trong luật cạnh tranh để bổ sung các hành vi mới xuất hiện có ảnh hưởng xấu đến cạnh tranh cần ngăn chặn.

Đối với các hành vi hạn chế cạnh tranh thì tuỳ theo hoàn cảnh, vụ việc thực tế để cân nhắc mức độ nguy hại tới môi trường cạnh tranh. Do đó, đối với các hành vi hạn chế cạnh tranh quy định trong luật được điều chỉnh theo hai nguyên tắc, bên cạnh một số hành vi bị cấm theo nguyên tắc vi phạm mặc nhiên cấm (per se rule) nhiều hành vi khác được xem xét theo nguyên tắc lập luận hợp lí (rule of reason) tức là chỉ bị cấm trong những điều kiện cụ thể quy định trong luật cạnh tranh. Theo đó, luật cạnh tranh của nhiều quốc gia đều liệt kê hành vi bị cấm vô điều kiện như lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền và chủ thể thực hiện hành vi này không được hưởng miễn trừ. Bên cạnh đó, luật cạnh tranh cũng đưa ra các điều kiện để xác định những hành vi nào khi thực hiện sẽ gây giảm sức ép cạnh tranh nên sẽ bị cấm. Tuy nhiên, những hành vi hạn chế cạnh tranh bị cấm. có điều kiện này cũng có thể được hưởng miễn trừ trong một số trường hợp. Do đó, đối với những hành vi hạn chế cạnh tranh bị cấm theo nguyên tắc lập luận họp lí đòi hỏi cơ quan thực thi luật cạnh tranh phải có kinh nghiệm và linh hoạt trong việc vận dụng quy định pháp luật để xác định một cách chính xác hành vi hạn chế cạnh tranh bị cấm thực hiện. Mặt khác pháp luật cạnh tranh (ở các nước theo hệ thống luật Anh-Mỹ hay hệ thống luật lục địa) đều thừa nhận sự tồn tại hệ thống tiền lệ pháp trong quá trình xử lí vụ việc cạnh tranh.

Thứ ba, ngoài các quy định về nội dung điều chỉnh hành vi cạnh tranh, pháp luật cạnh tranh còn có các quy định để đảm bảo thực thi luật cạnh tranh. Đó là các quy định điều chỉnh hoạt động tố tụng cạnh tranh và xử lí vi phạm pháp luật cạnh tranh.

Khác với các lĩnh vực pháp luật khác trong kinh doanh như pháp luật về doanh nghiệp, pháp luật thương mại, pháp luật đầu tư... pháp luật cạnh tranh ngoài các quy phạm điều chỉnh quan hệ cạnh tranh giữa các doanh nghiệp còn bao gồm nhiều quy phạm quy định về trình tự, thủ tục giải quyết các vụ việc thực hiện các hành vi hạn chế cạnh tranh bị cẩm hay các hành vi cạnh tranh không lành mạnh và các biện pháp xử lí đổi với các chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật cặnh tranh.

3. Bài tập tình huống luật cạnh tranh

Bài tập tình huống luật cạnh tranh

Bài tập tình huống luật cạnh tranh

Tình huống 1:

Do chi phí sản xuất ở VN tăng cao, công ty thép A đã đặt một công ty Trung Quốc tại tỉnh Quảng Tây gia công sản xuất sắt xây dựng theo tiêu chuẩn Việt Nam và dán nhãn hiệu thép của của công ty A.Nhờ đó công ty thép A bán sắt xây dựng ở VN với giá thấp hơn thị trường.

Theo gương công ty A, các công ty sản xuất thép khác là B và C cũng đặt Trung Quốc gia công và cùng với A tạo ra cuộc chạy đua giảm giá sắt xây dựng rất được lòng khách hàng.
Tuy nhiên, các doanh nghiệp sản xuất thép còn lại, chiếm khoảng 78% thị trường sắt- xây dựng một mặt cáo buộc các công ty A, B, C vi phạm luật cạnh tranh, mặt khác cùng đồng ý thực hiện một giá bán tối thiểu chung (giá sàn). theo yêu cầu của các doanh nghiệp này, hiệp hội các nhà sản xuất thép VN cũng làm đơn kiến nghị chính phủ ra qui định thực hiện giá sàn về sắt xây dựng.

Tổng giám đốc công ty A cảm thấy lo lắng và muốn bạn tư vấn

1. Công ty A có vị phạm luật cạnh tranh không? Tại sao?

2. Các doanh nghiệp còn lại có vi phạm luật cạnh tranh không? Tại sao?

3. Công ty A có phải thực hiện giá sàn không?

Trả lời:

1. Công ty A có vị phạm luật cạnh tranh không? giải thích tại sao?

“Gia công trong thương mại là hoạt động thương mại, theo đó bên nhận gia công sử dụng một phần hoặc toàn bộ nguyên liệu, vật liệu của bên đặt gia công để thực hiện một hoặc nhiều công đoạn trong quá trình sản xuất theo yêu cầu của bên đặt gia công để hưởng thù lao.”

Việc nhờ công ty TQ gia công HH, sau đó dán nhãn của chính công ty A thi hành vi này không vi phạm về chỉ dẫn gây nhầm lẫn (1-39) do đặc điểm hành vi này là phải tắc động vào đối tượng chỉ dẫn gây nhầm lẫn đối với HH, DV của đối thủ cạnh tranh  hoặc chính thương hiệu của đối thủ cạnh tranh. Trong th này theo đinh nghĩa hợp đồng gia công thì công ty A vẫn làm chủ đối với thương hiệu của mình, việc công ty A hạ giá thành nhờ vào khả năng kinh doannh, hiệu quả sx chứ không phải nhờ vào khả năng chịu lỗ của mình do đó cũng không vi phạm quy định tại 1-13 và Điều 23 NĐ 116 trong th công ty A là công ty có vị trí thống lĩnh

2. Các doanh nghiệp còn lại có vi phạm luật cạnh tranh không? tại sao?

Các doanh nghiệp sản xuất thép còn lại, chiếm khoảng 78% thị trường sắt và cùng hợp đồng => nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh (2c-11) hành vi trên tác nhằm tác động vào đối thủ công ty nên thuộc nhóm 2 gốm khoản 1 và khoản 6 Điều 13. Xét hành vi của nhóm doanh nghiệp này thì hành vi trên thuộc khoản 1 – bán HH, cung ứng dưới giá thành nhằm loại bỏ đối thủ. hành vi trên không thuộc th được miễn trừ (k2-23 NĐ), do đó nếu giá sàn mà nhóm doanh nghiệp trên đưa ra thấp hơn các chi phí quy định tại 1-23 thì nhóm doanh nghiệp trên đã vi phạm quy định này và việc áp dụng giá sàn dưới giá thành là nhằm loại bỏ doanh nghiệp A, trái luật công ty

3. Công ty A có phải thực hiện giá sàn không?

Việc thực hiện giá sàn là thỏa thuận riêng của nhóm doanh nghiệp trên, thỏa thuận này không có tính ràng buộc pháp lý đối với công ty A cho tới khi chính phủ ra qui định thực hiện giá sàn về sắt xây dựng thì công ty A mời phải thực hiện giá sàn.

Tình huống 2:

Hãy cho biết có hành vi vi phạm luật Cạnh tranh trong những tình huống sau đây ko? Nếu có thì hành vi là gì và hãy nêu rõ biện pháp xử lý đối với hành vi vi phạm đó:

1. Công ty X là 1 doanh nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng có thị phần chiếm 27% trên thị trường liên quan. công tyy X kí hợp đồng đại lý với 1 cửa hàng vạt liệu xây dựng Y theo đó cửa hàng này sẻ làm đại lý tiêu thụ vật liệu xây dựng cho công tyy X. Trong hợp đồng có điều khoản ràng buộc cửa hàng Y không được làm đại lý tiêu thụ vật liệu xây dựng cho các đối thủ cạnh tranh của công ty X.

Trả lời:

Công ty X là 1 doanh nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng có thị phần chiếm 27% trên thị trường liên quan.

=> Chỉ có 1 mình công ty X nên không thể là thị trường hạn chế công ty, lại càng không thể là doanh nghiệp độc quyền, vậy trong th này có thể xét rằng tuy công ty X có thị phần dưới 30% nhưng có khả năng gây hạn chế công ty 1 cách đáng kể (1-11).

HV của công ty X là HV quy định tại k5-13 cụ thể là Điều 30 NĐ-áp đặt một điều kiện ngoài phạm vi cần thiết để thực hiện hợp đồng. điều khoản ràng buộc cửa hàng Y không được làm đại lý tiêu thụ vật liệu xây dựng cho các đối thủ cạnh tranh của công tyy X là một dk không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng.

Do đó HV của X là vi phạm Điều 30 NĐ 116 (lưu ý là phải thỏa dk tô đậm bên trên, nếu không thì không xem là một hv hạn chế công ty).

Xử lý: X sẽ phải chịu cảnh cáo or phạt tiền với mức phạt tiền tối đa 10% tổng doanh thu trong năm tài chính trước năm thực hiện HVVP, ngoài ra HV của X là HV bị cấm hoàn toàn nên có thể bị áp dụng một trong nhiều biện pháp quy đinh tại 3a-117. Trong th này thì đề xuất ap dụng 3d-117 (loại bỏ dk vi phạm).

2. Công ty TNHH A là công ty chuyên sản xuất dầu nhớt thị phần chiếm 38% trên thị trường dầu nhớt VN. Do giá dầu thô trên thế giới tăng cao, công ty A quyết định tăng giá các sản phẩm dầu nhớt do mình sản xuất và đồng thời giảm lượng cung hàng hóa của mình trên thị trường mặc dù nguồn cung cấp nguyên liệu để công ty A sản xuất dầu nhớ vẫn ổn định. Cùng thời gian đó, một thành viên sáng lập công tyy A đã bán hết phần vốn thuộc sở hữu của mình trong công tyy A (52% vốn Điều lệ của công tyy A) cho công tyy Z – một công tyy sản xuất dầu nhớt ở Đức có thị phần khoảng 40% trên thị trường dầu nhớt ở Đức.

Trả lời:

A là doanh nghiệp thống lĩnh (1-11)

HV của A là HV tự hạn chế chính mình mặc dù nguồn cung cấp nguyên liệu để công ty A sản xuất dầu nhớ vẫn ổn định tức không có sự biến động về kinh tế, QH cung cầu…(1a-28 NĐ), HV của A khi ấn định lượng cung ứng HH nhằm mục đích tạo sư khan hiếm trên thị trường liên quan gây thiệt hại cho KH => vi phạm Điều 28 NĐ

Ngoài ra HV tăng giá bán khi cầu HHDV không tăng đột biến vượt năng lực cung ứng của X cũng vi phạm Điều 27 NĐ

“cùng TG đó… ở Đức” phần này bó tay @.@!

Xử lý: A sẽ phải chịu cảnh cáo or phạt tiền với mức phạt tiền tối đa 10% tổng doanh thu trong năm tài chính trước năm thực hiện HVVP, ngoài ra HV của X là HV bị cấm hoàn toàn nên có thể bị áp dụng một trong nhiều biện pháp quy đinh tại 3a-117. Trong trường hợp này thì đề xuất áp dụng 3a Đ117.

Tình huống 3:

Công ty A là công ty duy nhất có quyền cung cấp xăng máy bay trên các sân bay Việt Nam. Do giá xăng dầu quốc tế tăng, công ty A yêu cầu hãng hàng không B chấp nhận tăng giá bàn so với giá trong hợp đồng đã ký trước đó. Hãng hàng không B không đồng ý với lý do công ty A không áp dụng giá đó cho công ty C. Sau đó công ty A đột ngột ngừng cấp xăng cho hãng hàng không B khiến toàn bộ các chuyến bay của hãng hàng không B không thể thực hiện được.

Hỏi:

1. Công ty A có vi phạm pháp luật cạnh tranh không? tại sao?

2. Trong trường hợp hành vi của công ty A gây thiệt hại cho hãng hàng không B thì hãng hàng không B có quyền yêu cầu cơ quan thực thi luật cạnh tranh giải quyết yêu cầu bồi thường thiệt hại không? giải thích tại sao?

Trả lời

1. Công ty A vi phạm pháp luật cạnh tranh.

Công ty A là doanh nghiệp có vị trí độc quyền.

Đầu tiên xét hành vi không áp dụng mức giá chung giũa công ty B và công ty C: đây là hành vi thuộc nhóm gây thiệt cho đối thủ lẫn KH , cụ thể trong trường hợp này là khoản 4-13. Xét quy định cụ thể tại Điều 29 NĐ thì hành vi này có sự phân biệt đối xử về giá cả mặt hàng xăng đặt ra doanh nghiệp C có vị trí cạnh tranh có lợi hơn doanh nghiệp B, do đó hành vi này của A là trái pháp luật.

Thứ hai, xét hành vi đột ngột ngừng cấp xăng cho B: việc thực hiện hành vi này của công ty A chứng tỏ A đã lợi dụng vị trí độc quyền nhằm đơn phương hủy bổ giao kết hợp đồng mà không có lý do chính đáng nên cũng trái pháp luật công ty (3-14).

2. Không, cơ quan giải quyết cạnh tranh không có thầm quyền giải quyết yêu cầu bồi thường thiệt hại (điều 119) do việc giải quyết này sẽ được giải quyết theo quy định của pháp luật dân sự (3đ-117)

Tình huống 4:

Các hành vi sau có vi phạm pháp luật cạnh tranh hay không? Tại sao?

1. Công ty A có thị phần 35% trên thị trường liên quan đã đưa ra quyết định về tỷ lệ giảm giá khác nhau cho các đại lý ở các địa bàn khác nhau.

Trả lời:

Công ty A có thị phần 35%>30% nên công ty A là doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường (k1-11) trên thị trường liên quan.

Hành vi trên có thể xem là hành vi áp đặt điều kiện thương mại khác nhau trong cùng một điều kiện giao dich như nhau gây bất bình đẳng giữa các đại lý khi công ty A áp đặt tỷ lệ giảm giá khác nhau cho từng đại lý (k4-13 hoặc Điều 29 NĐ)

Để xét xem có phải hành vi vi phạm k4-13 hoặc Điều 29 NĐ hay không ta cần xác định việc các đại lý này nằm ở các địa bàn khác nhau thì có xem là không cùng một thị trường địa lý liên quan hay không.

Nếu thỏa các điều kiện về thị trường ĐLLQ như HH,DV này có thể thay thế cho nhau với các dk cạnh tranh tương tự và có sự khác biệt đáng kể với các khu vực địa lý lân cận thì các đại lý này nằm trong cùng một thị trường ĐLLQ nên hành vi của công ty A là VP, ngược lại thì không.

2. Sáu công ty sản xuất, lắp ráp máy tính ở VN có thị phần 30% trên thị trường liên quan đã ký thỏa thuận hợp tác lắp ráp máy tính giá rẻ với thương hiệu chung và ấn định giá bán loại máy tính này phải dưới 4 triệu đồng.

Trả lời:

Sáu công ty sản xuất, lắp ráp máy tính ở VN có thị phần 30% => không phải thuộc nhóm doanh nghiệp thống lĩnh (k2-11)

Ký thỏa thuận hợp tác lắp rápmaáy tính giá rẻ với thương hiệu chung => cũng không phải nhóm  hành vi tập trung kinh tế (Điều 16).

Nhóm này là thuộc Điều 8: các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.

Nhóm doanh nghiệp này có thị phần kết hợp là 30% nên có khả năng thuộc vi phạm k2-9.

Xét về hành vi ấn định giá bán loại máy tính này phải dưới 4 triệu đồng: đây là hành vi ấn định giá áp dụng giá HH một cách trực tiếp cụ thể là áp dụng thống nhất mức giá với tất cả KH, vi phạm Điều 14 NĐ 116.

Tuy nhiên, xét các mục đích của các doanh nghiệp khi ấn định mức giá dưới 4 triệu có thể nhằm hạ giá thành có lợi cho người tiêu dùng nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh, thúc đảy tiến bộ kỹ thuật thì sẽ được xét hưởng miễn trừ có thời hạn (điều 10). Các doanh nghiệp có thể nộp đơn lên Bộ TM (điều 25) theo thủ tục quy định tại Điều 28.

Tình huống 5:

Vận dụng quy định của Luật Cạnh tranh (2004) để cho ý kiến của anh, chị về các tình huống sau đây. (Giải thích ngắn gọn)

1. Để tham gia đấu thầu cho dự án X (một dự án đã được mời thầu công khai), các đối thủ cạnh tranh A, B, C đã thông báo cho nhau về giá dự thầu bằng tiền VNĐ trong các dự án tương tự trước đó.

Trả lời:

Tình huống trên không vi phạm Lcông ty vì giá thông báo là giá dự thầu của các dự án tương tự trước đó, ngoài ra hành vi trên không đảm bảo cho việc một trong các bên có thê thắng thầu trong dự án lần này bởi 1 trong các bên vẫn có thể thay đổi giá dự thầu. Ngoài ra, hành vi trên không thuộc 1 trong các hành vi quy định tại Điều 21 NĐ 116.

2. Trong hợp đồng đại lý có điều khoản:

“Bên đại lý không được sản xuất cũng không được bán các sản phẩm cạnh tranh theo như thoả thuận này và trong vòng 3 năm kể từ ngày thoả thuận này hết hiệu lực”.

Trả lời:

Vì nội dung này trong cả hành vi hạn chế công ty và hành vi lạm dụng đều quy định như nhau nên không xét chia trương hợp chủ thể thực hiện hành vi nữa, xét nội dung hành vi thôi.

Đây là một thỏa thuận trước khi ký hợp đồng, điều kiện tiên quyết để ký hợp đồng do đó hành vi này có thể là hành vi quy định tại Điều 18 và Điều 30 NĐ.

Xét về hành vi, hành vi trên quy định đại lý không được sx chính sp đó, còn trong quy định của luật thì hành vi bị cấm là hành vi hạn chế sản xuất, phân phối hàng hóa khác (tức HH không thuộc đối tượng của hợp đồng) không liên quan đén cam kết đại lý.

Đồng thời khi bên đại lý đã từng nhận sx thì sẽ có khả năng cạnh tranh cao hơn và có thể cạnh tranh lại chính bên kia, do đó đây cũng là một thỏa thuận hợp lý nhằm đảm bảo vị quyền lợi của doanh nghiệp trong 1 TG nhất định, do đó nó không phải là “một hoặc 1 số nghĩa vụ nằm ngoài phạm vi cần thiết đề thực hiện hơp đồng”.

Vậy quy định trên không vi phạm.

Ah bổ sung có 2 loại hợp đồng đại lý là hợp đồng bao tiêu và hợp đồng độc quyền, cái này chắc đa phần là hợp đồng độc quyền.

3. Công ty A có thị phần là 35% trên thị trường đồ uống có ga loại đóng chai tại Việt Nam.

Trả lời:

Công ty có bản chào giá cho sản phẩm X đối với 2 khách hàng

– Khách hàng A: 20.000 chai – 5.000/chai (giá đặc biệt)

– Khách hàng B: 20.000 chai – 10.000/chai

Công ty A có thị phần là 35% trên thị trường đồ uống có ga => doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh (1-11) => bị cấm những hành vi tại Điều 13

hành vi trên không vp 1-13 vì theo 29 NĐ 116 thì phải là áp đặt giá bán khác nhau đối với các Doanh nghiệp  nhằm tạo bất bình đẳng, còn trong th trên là bán giá khác nhau áp dụng đối với KH

Ngoài ra nhóm tác động tới KH là nhóm 2,3-13 thì không quy định về hành vi trên (xem 27,28 NĐ 116)

Tình huống 6:

Công ty thành công là Công ty chuyên KDXK hàng dệt may chiếm 15% thị trường sp may mặc tại VN. Công ty ký hợp đồng với Công ty may Hòa hợp, có thị phần 20% thị trường sp liên quan.
Trong đó thỏa thuận khi 2 Công ty này có hạn ngạch hàng dệt may thì Công ty thành công sẽ đổi hạn nghạch dệt may vào thị trường Mỹ cho Công ty Hòa hợp để lấy hạn ngạch vào thị trường Châu Âu.

Câu hỏi:

1. theo Luật cạnh tranh thỏa thuận trên có vi phạm hay không? giải thích

2. Công ty Hòa Hợp sau đó ký 1 hợp đồng với Công ty VinaFashion để Công ty này phân phối các sp do Công ty Hòa hợp sản xuất trên thị trường VN. Trong hợp đồng có 1 điều khoản:
“Công ty VinaFashion chỉ được ký hợp đồng cung cấp các sp của Công ty Hòa hợp có giá trị dưới 50 triệu đồng. cho khách hàng. Tất cả hợp đồng có giá trị lớn hơn 50 triệu phải được thông báo cho Công ty Hòa hợp để Công ty Hòa hợp trực tiếp ký hợp đồng cung ứng cho khách hàng”. Hỏi điều khoản trên có vi phạm Luật cạnh tranh không? giải thích?

Gợi ý đáp án:

1. Thoả thuận phân chi thị trường của Công ty thành Công và Hoà Hợp là không vi phạm pháp luật, vì trong các thoả thuận hạn chế cạnh tranh tại Điều 8 và 9 Lcông ty không quy định trường hợp trên.

2. Thoả thuận giữa công ty Hoà hợp và công ty Vinafashion là vi phạm pháp luật cạnh tranh.
căn cứ điểm a, khoản 1 Điều 30 NĐ 116/2005:

“Áp đặt cho doanh nghiệp khác điều kiện ký kết hợp đồng mua, bán hàng hoá, dịch vụ là việc đặt điều kiện tiên quyết sau đây trước khi ký kết hợp đồng:

a) Hạn chế về sản xuất, phân phối hàng hoá khác; mua, cung cứng dịch vụ khác không liên quan trực tiếp đến cam kết của bên nhận đại lý theo quy định của pháp luật về đại lý;

…”

Tình huống 7:

Trường hợp một công tyy CP ở thành phố Hồ Chí Minh có giấy dăng ký bán hàng đa cấp do Sở thương mại HCM cấp có chi nhánh ở Đà Nẵng. Chi nhánh Đà Nẵng lại thông báo bán hàng đa cấp ra một môt tỉnh khác. Xin hỏi chi nhánh đó có quyền thông báo bán hàng đa cấp ra tỉnh khac không?

Gợi ý đáp án:

Pháp luật không quy định quyền tổ chức BHĐC của chi nhánh công ty. Chủ công ty phải có nghĩa vụ thông báo hoặc chi nhánh công ty tại Đà Nẵng sẽ thông báo theo ủy quyền./.

Tình huống 8:

Ba đối tượng A, B, C (là các cá nhân có tham gia đầu tư chứng khoán) với mục đích vụ lợi về kinh tế nên đã tung tin đồn trên các diễn đàn mạng với nội dung “công ty cổ phần M trong năm 2015 kinh doanh thua lỗ khoảng 20 tỷ đồng”. thông tin này làm ảnh hưởng đáng kể đến giá trị cổ phiếu của công ty cổ phần M trên thị trường chứng khoán.

1. Hành vi trên có vi phạm Luật Cạnh tranh 2004 không? Tại sao?

2. Công ty M cho rằng các đối tượng trên vi phạm pháp luật làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của công ty nên dự định khởi kiện ra trọng tài thương mại để giải quyết. Anh (chị) hãy cho biết ý kiến của mình về dự định của cty M.

Gợi ý đáp án:

1. Hành vi trên của ba đối tượng A, B, C đã vi phạm Luật Cạnh tranh 2004, cụ thể là vi phạm khoản 4 Điều 39, Điều 43 Luật Cạnh tranh 2004. Hành vi trên của A, B, C được xem là hành vi gièm pha doanh nghiệp khác. Ba đối tượng trên đã  trực tiếp đưa ra thông tin không trung thực (công ty M kinh doanh thua lỗ 20 tỷ trong năm 2015) gây ảnh hướng xấu đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp M (thông tin trên khiến cho cổ phiếu của công ty M trên thị trường chứng khoán bị ảnh hưởng một cách đáng kể).

2. Việc khởi kiện của công ty M lên trọng tài thương mại là không hợp lý. Công ty M cần thực hiện thủ tục khiếu nại lên cơ quan quản lý cạnh tranh theo Luật Cạnh tranh 2004. Bởi lẽ, chỉ có cơ quan quản lý cạnh tranh mới có thẩm quyền xử lý các vụ việc cạnh tranh liên quan đến hành vi cạnh tranh không lành mạnh (cụ thể ở đây là hành vi gièm pha doanh nghiệp khác của ba đối tượng A, B, C). Như vậy, công ty M cần thực hiện việc khiếu nại theo thủ tục tố tụng cạnh tranh thì mới có thể đảm bảo được quyền lợi của mình.

Tình huống 9:

Ông A đang nghiên cứu cách làm tiết kiệm xăng của bộ chế hòa khí xe máy. Có ba công ty chuyên sản xuất, phân phối bộ chế hòa khí trên thị trường Việt Nam là X, Y, Z (có thị phần kết hợp là 68% trên thị trường liên quan) thỏa thuận với ông A về việc “họ sẽ trả cho ông A một khoản tiền lớn với điều kiện ông A phải hủy bỏ, không tiếp tục nghiên cứu vấn đề trên. Trường hợp ông A tiếp tục nghiên cứu sẽ gặp nguy hiểm đến tính mạng”. điều kiện này được ông A đồng ý.

Hãy xác định 3 công ty nêu trên có vi phạm Luật Cạnh tranh 2004 không? Vì sao?

Gợi ý đáp án:

Hành vi của ba công ty trên đã vi phạm Luật Cạnh tranh 2004, cụ thể là  khoản 3 Điều 13 Luật Cạnh tranh 2004. Bởi lẽ,

Thứ nhất, thị phần kết hợp của X, Y, Z là 68% đã đủ điều kiện quy định tại điểm b khoản 2 Điều 11 Luật Cạnh trạnh 2004.

Thứ hai, X, Y, Z có hành vi đe dọa ông A thông qua việc ép buộc ông A phải việc ngừng nghiên cứu bộ chế hòa khí xe máy nếu không thì ông A sẽ gặp nguy hiểm đến tính mạng, phù hợp với hành vi được quy định tại điểm a khoản 3 Điều 28 Nghị định 116/2005/NĐ-CP.

Thứ ba, hậu quả của việc đe dọa trên sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi của khách hàng.

Tình huống 10:

Công ty cổ phần B tung ra thị trường sản phẩm điện thoại thông minh Z10 với giá 12.5 triệu đồng. Tuy nhiên, tình hình kinh tế khó khăn cùng với sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường điện thoại di động Việt Nam trong thời gian qua đã khiến cho doanh số của Z10 không đạt được như mong muốn của công ty B. Do đó, công ty này thực hiện chương trình khuyến mại. theo đó từ ngày 1/9/2013- 30/10/2013 khi khách hàng mang một điện thoại bất kỳ của các hãng sản xuất khác đến cửa hàng/ đại lý ủy quyền của công ty B thì sẽ được mua điện thoại thông minh Z10 với giá 9.5 triệu đồng. Biết rằng thị phần trên thị trường liên quan của B là 7,8%. Giá thành toàn bộ của điện thoại thông minh Z10 là 8,1 triệu đồng.

Công ty B có vi phạm pháp luật cạnh tranh hay không?­

Gợi ý đáp án:

Công ty B không vi phạm pháp luật cạnh tranh bởi lẽ,

Thứ nhất, thị phần của B trên thị trường liên quan chỉ là 7,8%, do vậy, B không thể trở thành chủ thể vi phạm pháp luật cạnh tranh đối với nhóm hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường hay vị trí độc quyền. Mặt khác, ở đây không tồn tại một thỏa thuận nào quy định taị Điều 8 Luật Cạnh tranh 2004, đồng thời, B cũng không có hành vi tập trung kinh tế theo Điều 16 Luật Cạnh tranh 2004. Do đó, B không vi phạm quy định của pháp luật cạnh tranh về hạn chế cạnh tranh.

Thứ hai, B cũng không vi phạm quy định của Luật Cạnh tranh 2004 về hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Cụ thể là không vi phạm khoản 7 Điều 39 Luật Cạnh tranh 2004 đối với hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh. Ở đây, phương thức khuyến mại của B được xem như là phương thức đổi có đền bù chứ không phải đổi ngang (đổi không đền bù) như quy định tại khoản 4 Điều 46 Luật Cạnh tranh 2004.

Trên đây là một số thông tin về bài tập tình huống luật cạnh tranh. Hy vọng với những thông tin ACC đã cung cấp sẽ giúp bạn giải đáp được những thắc mắc về vấn đề trên. Nếu bạn cần hỗ trợ hãy đừng ngần ngại mà liên hệ vớiCông ty Luật ACC, để được chúng tôi hỗ trợ nhanh chóng. ACC cam kết sẽ giúp bạn có trải nghiệm tốt nhất về các dịch vụ mà mình cung cấp đến khách hàng. Chúng tôi luôn đồng hành pháp lý cùng bạn.

Nội dung bài viết:

    Hãy để lại thông tin để được tư vấn

    comment-blank-solid Bình luận

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo