Áp dụng pháp luật gồm bao nhiêu giai đoạn chi tiết

phap-luat-la-gi-1

 áp dụng pháp luật gồm bao nhiêu giai đoạn

1. Thế nào là áp dụng pháp luật? 

Theo lý luận chung về pháp luật, thi hành pháp luật là một trong bốn hình thức thi hành pháp luật,  là hoạt động mà cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc cá nhân  thực hiện ở những giai đoạn nhất định nhằm cụ thể hóa các quy định của pháp luật có hiệu lực trong các lĩnh vực cụ thể. sự kiện pháp lý và sự kiện của đời sống xã hội với những chủ thể cụ thể và theo một trình tự, thủ tục cụ thể do pháp luật quy định. Như vậy, qua nhận thức về bản chất của thi hành pháp luật, có thể thấy những đặc điểm cơ bản của thi hành pháp luật như sau: 

 

 Thứ nhất, thi hành pháp luật là một hoạt động  đặc thù và có tính tổ chức cao của nhà nước. Khác với các hình thức thi hành pháp luật khác, thi hành pháp luật chỉ có thể được thực hiện bởi các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền theo quy định của pháp luật và mỗi chủ thể đó  chỉ được thực hiện quyền áp dụng pháp luật trong một khuôn khổ nhất định. với  trình tự, thủ tục chặt chẽ. Như vậy, hoạt động áp dụng pháp luật không phải là một hoạt động tùy tiện và được thực hiện một cách linh hoạt mà nó có tính tổ chức cao. Hoạt động này còn mang tính quyền lực của nhà nước, thể hiện ở chỗ pháp luật trong mỗi lĩnh vực chỉ cho phép một số chủ thể nhất định được áp dụng pháp luật. 

 

 

 chỉ có thể là  cơ quan nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong các cơ quan này, hơn nữa, chủ thể áp dụng theo ý chí đơn phương của mình mà không phụ thuộc vào ý chí của bên bị yêu cầu, việc áp  dụng pháp luật còn được đảm bảo  bằng các biện pháp cưỡng chế nhà nước. Ví dụ trong tố tụng hình sự  là  biện pháp cưỡng chế, biện pháp ngăn chặn, biện pháp hành chính trong xử lý vi phạm hành  chính, v.v. 

 

 Thứ hai, thi hành pháp luật là hoạt động điều chỉnh riêng đối với từng quan hệ xã hội cụ thể. Pháp luật được định hướng trở thành công cụ hữu hiệu trong  quản lý nhà nước và xã hội, tuy nhiên, các quy phạm pháp luật chỉ là những quy tắc xử sự chung cho toàn  xã hội,  không  quy định để điều chỉnh nhà nước và xã hội theo một chủ đề cụ thể. Vì vậy,  cơ quan, cá nhân có thẩm quyền áp dụng pháp luật có nhiệm vụ đặt ra các quy tắc xử sự chung  có khả năng điều chỉnh các quan hệ xã hội cụ thể để giải quyết các sự kiện pháp lý xảy ra trong đời sống xã hội. Nói cách khác, áp dụng pháp luật là quá trình chủ thể cụ thể hoá các quy phạm pháp luật của nhà nước thành các sự kiện, sự việc của xã hội  nhằm quản lý các quan hệ xã hội. Trong tố tụng dân sự và  luật hôn nhân và gia đình cũng vậy, việc áp dụng pháp luật chỉ diễn ra trong những trường hợp cụ thể, không có sự chồng chéo giữa các chủ thể là đối tượng áp dụng pháp luật. 

 

 

 Thứ ba, thi hành pháp luật là hoạt động được thực hiện theo một trình tự, thủ tục rất chặt chẽ. Xã hội  vận động bởi sự xuất hiện các sự kiện pháp lý một cách liên tục, thường xuyên làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt một quan hệ pháp luật tác động đến các chủ thể có liên quan, rộng hơn là tác động xã hội. Vì vậy, bất kỳ sự kiện pháp lý nào cũng phải được xử lý một cách nhanh chóng nhằm giảm bớt được những ảnh hưởng tiêu cực của nó đến các quan hệ cốt lõi của xã hội. Để đảm bảo cho việc giải quyết các sự kiện pháp lý một cách nhanh chóng, hiệu quả thì pháp luật trong từng lĩnh vực cụ thể cũng đặt ra một trình tự, thủ tục nhất định nhằm tạo điều kiện cho các chủ thể có thực hiện một cách nhanh chóng, chính xác và khách quan. Về bản chất, các trình tự, thủ tục này cũng là các quy phạm pháp luật, do vậy nó có tính bắt buộc đối với các chủ thể Áp dụng pháp luật , hay nói cách khác, các chủ thể phải tiến hành hoạt động Áp dụng pháp luật của mình theo trình tự, thủ tục đã được quy định, không được tuỳ nghi thực hiện hoặc thực hiện khác với các quy phạm pháp luật. Việc thực hiện hoạt động Áp dụng pháp luật vượt ngoài khuôn khổ sẽ làm tăng thời gian giải quyết, phát sinh các các hậu pháp lý tiêu cực cho người bị áp dụng cũng như cho người Áp dụng pháp luật . 

 

 

 Như vậy, từ những đặc điểm trên cũng như nhận thức về bản chất của Áp dụng pháp luật , học viên xin đưa ra khái niệm Áp dụng pháp luật như sau: 

 

 

 “Áp dụng pháp luật là hoạt động mang tính tổ chức và quyền lực Nhà nước, trong đó các cơ quan, cá nhân Nhà nước có thẩm quyền nhân danh Nhà nước áp dụng các quy phạm pháp luật vào các sự kiện pháp lý cụ thể làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt các quan hệ pháp luật thể hiện qua văn bản áp dụng pháp luật”.  Trên cơ sở phân tích khái niệm, có thể đưa ra những đặc điểm cụ thể của hoạt động thi hành pháp luật như sau: 

 

 Thứ nhất, thi hành pháp luật là hoạt động của quyền lực nhà nước: vì pháp luật do nhà nước ban hành và bảo đảm cho việc thi hành pháp luật. Nhờ có sự bảo đảm  của nhà nước, luật pháp  có tính ràng buộc đối với mọi vấn đề liên quan. Quá trình thực thi pháp luật là sử dụng quyền lực của nhà nước để giải quyết các vụ việc  thực tế thay mặt cho nhà nước. Thực chất đó là quá trình bảo đảm  cho quyền lực của nhà nước  thực sự phát huy tác dụng đối với chủ thể trong một trường hợp cụ thể. 

 

 Thứ hai, việc thi hành pháp luật chỉ do cơ quan nhà nước, cơ quan hoặc cá nhân có thẩm quyền tiến hành theo quy định của pháp luật, pháp luật quy định rõ thẩm quyền và điều kiện thi hành pháp luật trong từng lĩnh vực để tránh sự tùy tiện, vi phạm pháp luật trong thực tế.  Thứ ba, do áp dụng pháp luật thể hiện ý chí của nhà nước, quá trình này có thể là đơn phương, ý chí của nhà nước, hoặc nhà nước  cũng có thể công nhận ý chí của các chủ thể có liên quan. 

 

 Thứ tư, thi hành pháp luật là một hoạt động điều chỉnh riêng biệt, trong đó tính cá nhân trong thi hành pháp luật được thể hiện thông qua các tiêu chí cụ thể  sau: 

 

 Thứ nhất, áp dụng pháp luật là phương tiện biến những quy định chung được quy định trong các quy phạm pháp luật thành những quy định cụ thể hoặc quy tắc xử sự; 

 

 Thứ hai, về phía chủ thể, thông qua việc áp dụng pháp luật, ranh giới  pháp lý cần thiết có thể được xác định cả về nội dung của các quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm pháp lý có liên quan khi tham gia vào các quan hệ pháp luật. 

 

 

 Thứ ba, áp dụng pháp luật để làm rõ các yêu cầu cụ thể về  hình thức, thủ tục  thực hiện nội dung cơ bản này. 

 

 Áp dụng pháp luật là một quá trình phức tạp, trải qua nhiều giai đoạn khác nhau, bắt đầu từ việc phân tích, đánh giá các sự việc đã xảy ra trong thực tế, từ việc lựa chọn văn bản quy phạm pháp luật để áp dụng đến việc ban hành văn bản áp dụng và tổ chức thực hiện việc ban hành. tài liệu ứng dụng. Trong đó, việc lựa chọn tiêu chuẩn pháp lý phù hợp cho vụ việc được áp dụng là một khâu rất quan trọng trong quá trình áp dụng pháp luật. Một trong những yêu cầu của việc lựa chọn quy phạm pháp luật là xác định quy phạm được lựa chọn là quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp luật và không mâu thuẫn với các luật, văn bản quy phạm pháp luật khác. 

  2. Tính năng thực thi pháp luật: 

 Thứ nhất, hành pháp  là hoạt động thể hiện tính tổ chức và quyền lực của nhà nước 

 

 – Hoạt động cưỡng chế chỉ được thực hiện bởi các cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân có liên quan theo quy định của pháp luật  và mỗi chủ thể này chỉ được thực thi pháp luật trong một phạm vi nhất định theo quy định của pháp luật. 

  Hoạt động thi hành pháp luật là sự tiếp tục của sự thể hiện ý chí của nhà nước, thông qua việc thi hành pháp luật, ý chí của nhà nước được thể hiện trong các quy phạm pháp luật trở thành hiện thực trong hiện thực biểu hiện  trong những trường hợp đặc biệt. 

 - Khi áp dụng pháp luật, căn cứ vào quy định của pháp luật,  chủ thể có thẩm quyền áp dụng có thể ra mệnh lệnh, quyết định có hiệu lực pháp luật phải tôn trọng hoặc thực hiện đối với chủ thể áp dụng. Lệnh, quyết định này chủ yếu thể hiện ý chí đơn phương của chủ thể có  quyền yêu cầu mà không phụ thuộc vào ý chí của chủ thể yêu cầu. Lệnh, quyết định buộc thi hành pháp luật của  cơ quan, tổ chức nhà nước sẽ được nhà nước cưỡng chế thi hành thông qua nhiều biện pháp, trong đó có  biện pháp cưỡng chế nhà nước. 

 Hoạt động thi hành pháp luật là hoạt động có tính tổ chức  cao vì nó vừa là hình thức thi hành pháp luật, vừa là hình thức chủ thể chuyên quyền tổ chức cho các chủ thể khác thực hiện các quy định của pháp luật, do đó hoạt động  phải được tiến hành trong những điều kiện, trình tự, thủ tục rất chặt chẽ do pháp luật quy định. 

  Thứ hai, áp dụng pháp luật là sự cá thể hóa các quy phạm pháp luật có hiệu lực trong những trường hợp cụ thể, đối với  cá nhân, tổ chức. 

 

 Thứ ba, thi hành pháp luật là hoạt động  sáng tạo 

 

 Các quy định của pháp luật thường mang tính chất chung chung, chung chung, nhưng các vụ việc phát sinh trong thực tế lại vô cùng đa dạng, phong phú và phức tạp. Vì vậy, để đưa ra  quyết định  giải quyết vụ việc “thấu tình, đạt lý”, cần vận dụng óc sáng tạo, tư duy logic trên cơ sở  pháp luật  áp dụng.  

3. Các giai đoạn  áp dụng pháp luật: 

 Có bốn giai đoạn thực thi: 

 

 Phân tích, đánh giá nội dung, điều kiện, hoàn cảnh, sự kiện thực tế cần thi hành pháp luật: 

 Giai đoạn khởi đầu là rất quan trọng. Trước hết, phải xác định đúng nội dung, đối tượng và bản chất pháp lý của tình tiết này. Nếu cần phải thực thi pháp luật, cần làm rõ ai có thẩm quyền giải quyết vấn đề này. Rồi về  tổ chức, nhân sự,…; nêu rõ ưu nhược điểm nhưng nhìn chung hướng tới sự thuận tiện, tiết kiệm chi phí và thời gian, đạt hiệu quả cao nhất.  Lựa chọn quy phạm pháp luật làm cơ sở pháp lý để ra  quyết định áp dụng pháp luật: 

 Về nguyên tắc, phải chọn quy phạm pháp luật còn hiệu lực và trung thành với nội dung sự kiện. Tiếp theo, phân tích nội dung của tiêu chuẩn đã chọn. Trong thực tế, việc lựa chọn một tiêu chuẩn có thể được thực hiện với các khả năng sau: 

 

 – Có chuẩn mực pháp lý đáp ứng yêu cầu => Thực hành. 

 – Có từ 2 quy phạm pháp luật trở lên điều chỉnh quan hệ này nhưng cách giải quyết lại khác nhau => trong trường hợp có xung đột pháp luật thì quy phạm pháp luật có giá trị pháp lý cao nhất được lựa chọn và tuân theo. 

 – không có  cơ sở pháp lý để áp dụng  luật cho thực tế này: áp dụng cùng một luật. Ra Quyết định cưỡng chế: Là bước phản ánh kết quả thực tế của quá trình cưỡng chế. Đây thực chất là giai đoạn chuyển hóa những quy định chung được đặt ra trong các quy phạm pháp luật thành những quyết định cụ thể, mang tính cá nhân. Tính kịp thời của quyết định được xem xét dưới hai khía cạnh của tính pháp lý có hiệu lực. 

 Văn bản quy phạm pháp luật:  văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc cá nhân  ban hành theo  trình tự, thủ tục, tên gọi và quy tắc xử sự  cụ thể xuất hiện một lần trong đời sống pháp luật. 

 - Do cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền cấp 

 

 

 - Trình tự, thủ tục, hình thức, tên  văn bản áp dụng pháp luật và quy định của pháp luật  

 

 – Chứa các quy tắc ứng xử chính xác và cụ thể 

 

 – Thực hiện 1 lần cho đối tượng liên quan 

 

 - Bảo đảm thực hiện bằng  biện pháp nhà nước 

 

 Tổ chức thi hành quyết định áp dụng pháp luật trên thực tế: giai đoạn cuối 

 Cần triển khai hoạt động kiểm tra, giám sát việc thực hiện quyết định thi hành pháp luật với các chủ thể có liên quan để đảm bảo hiệu quả trong thực tế.

 

Nội dung bài viết:

    Hãy để lại thông tin để được tư vấn

    comment-blank-solid Bình luận

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo