1. Thời hạn thử thách được tích thế nào?
Thời gian thử thách được quy định trong luật là từ 1 năm đến 5 năm. Khi áp dụng cho trường hợp cụ thể, thời gian thử thách không được ngắn hơn mức hình phạt tù đã tuyên( trong thực tế, thời gian thử thách thường là dài hơn mức hình phạt tù đã tuyên). Thời gian thử thách được tính từ ngày tuyên bản án hoặc bản án đầu tiên cho hưởng án treo( trong trường hợp có nhiều bản án đều cho hưởng án treo).
Thời gian thử thách có thể được toà án xét giảm khi người bị án đã chấp hành được một nửa và có nhiều tiến bộ.
2. Quy định pháp luật về thời gian thử thách
Bộ luật hình sự số 100/ 2015/ QH13 ngày27/11/2015 ngày27/11/2015 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự số 12/ 2017/ QH14 ngày26/06/2017( sau đây gọi tắt là Bộ luật hình sự) chỉ quy định về thời gian thử thách tại Khoản 1 Điều 65
“ Điều 65. Án treo
1.. ấn định thời gian thử thách từ 01 năm đến 05 năm và thực hiện các nghĩa vụ trong thời gian thử thách theo quy định của Luật thi hành án hình sự. ”
Nghị quyết số 02/ 2018/ NQ- HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Tòa án Nhân dân Tối cao ngày 15 tháng 05 năm 2018( sau đây gọi là Nghị quyết số02/2018) hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật hình sự về án treo quy định về thời gian thử thách như sau
“ Điều 4. Ấn định thời gian thử thách
Khi cho người phạm tội hưởng án treo, Tòa án phải ấn định thời gian thử thách bằng hai lần mức hình phạt tù, nhưng không được dưới 01 năm và không được quá 05 năm. ”
“ Điều 5. Thời điểm bắt đầu tính thời gian thử thách
Thời điểm bắt đầu tính thời gian thử thách được xác định như sau
1. Trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm cho hưởng án treo, bản án không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm thì thời điểm bắt đầu tính thời gian thử thách là ngày tuyên án sơ thẩm.
2. Trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm cho hưởng án treo, Tòa án cấp phúc thẩm cũng cho hưởng án treo thì thời điểm bắt đầu tính thời gian thử thách là ngày tuyên án sơ thẩm.
3. Trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm không cho hưởng án treo, Tòa án cấp phúc thẩm cho hưởng án treo thì thời điểm bắt đầu tính thời gian thử thách là ngày tuyên án phúc thẩm.
4. Trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm cho hưởng án treo, Tòa án cấp phúc thẩm không cho hưởng án treo, nhưng Hội đồng giám đốc thẩm hủy bản án phúc thẩm để xét xử phúc thẩm lại và Tòa án cấp phúc thẩm cho hưởng án treo thì thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.
5. Trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm cho hưởng án treo, nhưng Hội đồng giám đốc thẩm hủy bản án sơ thẩm, bản án phúc thẩm để điều tra hoặc xét xử lại và sau khi xét xử sơ thẩm lại, xét xử phúc thẩm lại, Tòa án cấp sơ thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm vẫn cho hưởng án treo thì thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm hoặc tuyên án phúc thẩm lần đầu.
6. Trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm không cho hưởng án treo, bản án không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, nhưng Hội đồng giám đốc thẩm sửa bản án sơ thẩm cho hưởng án treo thì thời gian thử thách tính từ ngày quyết định giám đốc thẩm có hiệu lực.
7. Trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm không cho hưởng án treo, nhưng Hội đồng giám đốc thẩm sửa bản án phúc thẩm cho hưởng án treo thì thời gian thử thách tính từ ngày quyết định giám đốc thẩm có hiệu lực.
8. Trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm cho hưởng án treo, Tòa án cấp phúc thẩm không cho hưởng án treo, nhưng Hội đồng giám đốc thẩm hủy bản án phúc phẩm, giữ nguyên bản án sơ thẩm hoặc Hội đồng giám đốc thẩm sửa bản án phúc thẩm cho hưởng án treo, thì thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. ”
Nội dung bài viết:
Bình luận