Hiện nay, các bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ngày càng phổ biến. Bài viết dưới đây ACC cập nhật một số bản án tiêu biểu liên quan đến tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản để các bạn tham khảo.
Một số bản án tiêu biểu về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản- Cập nhật năm 2023
1/ Một số bản án tiêu biểu về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
1.1/ Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 159/2021/HSPT
+ Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng.
+ Trích dẫn nội dung: “Năm 2016, Trần Thị Như Y. mở cửa hàng kinh doanh, buôn bán mặt hàng đồ dùng cho trẻ em. Đến cuối năm 2017 thì bị thua lỗ và không có tiền trả nợ cho một số người, nên Y có những thủ đoạn gian dối, nói với mọi người là mình đang làm kinh doanh thu được nhiều lợi nhuận, nhưng do việc mở rộng kinh doanh thêm nhiều mặt hàng khác, như có đường dây mua bán hàng điện tử xuất qua nước Lào, mua hàng khuyến mại đồ dùng gia đình, mua bán đất nên cần vốn lớn. Y đã nói đối với mọi người thân quen cho Y vay mượn tiền trả lãi theo thỏa thuận hoặc góp vốn để kinh doanh mua bán hàng rồi chia lợi nhuận trong thời gian ngắn. Từ tháng 01/2018 đến tháng 7/2019, nhiều người tin tưởng lời nói của Y là thật, đã đưa tiền cho Y. Sau khi chiếm đoạt được tiền, Y lấy tiền của người sau trả cho người mượn tiền trước hoặc lấy tiền của người đưa để trả cho chính họ và sử dụng cá nhân như mua nhà, mua xe ô tô để phô trương nguồn tài sản của mình.”
+ Kết quả giải quyết: Xử phạt: Bị cáo Trần Thị Như Y tù Chung thân.
1.2/ Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 415/2020/HSST
+ Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
+ Trích dẫn nội dung: “Nguyễn Trà D là đối tượng không có nghề nghiệp, đầu năm 2018, Nguyễn Trà D nảy sinh ý định lừa đảo để chiếm đoạt tài sản nên đã tự giới thiệu với mọi người Nguyễn Trà D là Phó giám đốc tài chính của Hãng hàng không Vietjet và cố vấn tuyển dụng Hãng hàng không Bamboo Airways có mối quan hệ quen biết người làm ở Lãnh sự quán Canada nên Nguyễn Trà D có khả năng xin việc làm tại Hãng hàng không Bamboo Airways, và xin Visa đi định cư ở nước ngoài. Nhiều người tin Nguyễn Trà D xin được việc làm tại 02 hãng hàng không nêu trên, nên đã đưa tiền cho Nguyễn Trà D. Sau khi nhận được tiền của những người bị hại, Nguyễn Trà D không xin việc làm như đã hứa hẹn mà chiếm đoạt tổng cộng số tiền 1.139.779.656 đồng của nhiều người, cụ thể như sau:...”
+ Kết quả giải quyết: Xử phạt bị cáo Nguyễn Trà D: 14 năm tù.
1.3/ Bản án 15/2021/HS-ST ngày 05/02/2021 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
+ Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk.
+ Trích dẫn nội dung: “ Từ năm 2012, Th bắt đầu mở tài khoản và thực hiện giao dịch mua, bán cà phê trên sàn cà phê kỳ hạn và bị thua lỗ nên Th phải vay mượn tiền của nhiều người với lãi suất cao để trả nợ dẫn đến mất cân đối về tài chính (số tiền nợ nhiều hơn giá trị tài sản còn còn lại của Đỗ Đức Th, vượt quá khả năng trả nợ). Năm 2015 mặc dù đã mất khả năng trả các khoản nợ nhưng Th vẫn đưa thông tin gian dối đối với những người Th vay tiền để làm ăn, đầu tư công trình điện, đáo hạn ngân hàng…. Sau khi vay được tiền, Th không đầu tư làm ăn, kinh doanh mà dùng tiền vay được trả tiền gốc, tiền lãi cho những người Th vay trước đó cũng như tiếp tục mua, bán cà phê trên sàn cà phê kỳ hạn và bị thua lỗ. Cuối năm 2016, do không có tiền trả nợ nên Th bỏ trốn khỏi địa phương. Với thủ đoạn như trên, bị cáo Đỗ Đức Th đã thực hiện 03 vụ lừa đảo, chiếm đoạt tổng số tiền 8.822.000.000 đồng (Tám tỷ tám trăm hai mươi hai triệu đồng) cụ thể như sau:...”
+ Kết quả giải quyết: Xử phạt: bị cáo Đỗ Đức Th tù chung thân.
Công ty Luật ACC sẽ cung cấp thông tin tới quý độc giả những quy định của pháp luật hình sự hiện hành về tội chiếm đoạt tài sản trái phép
1.4/ Bản án 271/2017/HSPT về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
+ Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk.
+ Trích dẫn nội dung: Khoảng 15 giờ ngày 30/11/2016 Bùi Thanh H đi nhờ xe ô tô từ thành phố B xuống thị trấn Q, huyện C để xem xe mô tô nhãn hiệu Suzuki, biển kiểm soát 51F4-xxx do Hứa Thành Đ, trú tại đường H, thị trấn Q, huyện C rao bán trên mạng Internet. Khi đến thị trấn Q, Bùi Thanh H gặp Đ rồi thử xe mô tô và thỏa thuận mua bán xe với giá 27 triệu đồng nhưng thực tế H không có tiền. Qua tìm hiểu Bùi Thanh H biết giấy tờ xe mô tô không phải đứng tên của Đ thì nảy sinh ý định chiếm đoạt chiếc xe này nên khi mở cốp xe để kiểm tra đồ đạc trong xe thì H lấy một chìa khóa của xe máy rồi cất vào túi quần. Để có điều kiện chiếm đoạt xe, Bùi Thanh H nói Đ chở ra ngã tư chợ Q thuộc thị trấn Q để H lấy tiền trả cho Đ. Khi đến ngã tư, Hứa Thành Đ có gọi cho bạn gái là Trần Phạm Châu O, trú tại thị trấn Q, huyện C đi xe mô tô biển kiểm soát 47N9 -xx (xe của O) ra cùng. Sau đó, H đi bộ vào chợ Q rồi gọi điện thoại nói Đ vào chợ để lấy tiền, Đ tin tưởng nên đi bộ vào trong chợ tìm H còn O ở lại trông xe mô tô 51F4- xxx. Sau khi gọi điện thoại, H quay ra chỗ xe mô tô 51F1-xxxx và nói với O đi xe mô tô 47N9-xx vào trong chợ để chở Đ. Lợi dụng lúc O đi vào chợ thì H mở khóa điện xe mô tô 51F4-xxx và điều khiển xe chạy về thành phố B, tháo biển kiểm soát và thay bằng biển kiểm soát 47B1-737.xx (do H nhặt được) để sử dụng.
+ Kết quả giải quyết: Xử phạt: Bị cáo Bùi Thanh H 01 năm 04 tháng tù.
Bài viết dưới đây công ty Luật ACC sẽ cung cấp cho bạn một số thông tin về tội cưỡng đoạt tài sản để phần nào tháo gỡ vướng mắc cho quý độc giả
1.5/ Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 05/2022/HS-ST
+ Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông.
+ Trích dẫn nội dung: “Phạm Tuấn H là giám đốc công ty TNHH MTV đầu tư xây dựng C, được thành lập vào ngày 15-6-2017, có địa chỉ tại tổ dân phố 5, phường N, thành phố G, tỉnh Đắk Nông với ngành nghề kinh doanh là hoạt động xây dựng chuyên dụng khác. Ngày 26-12-2017, Phạm Tuấn H mua 01 xe ôtô đầu kéo, nhãn hiệu HYUNDAI HD1000, biển kiểm soát 48C-050.16 và 01 Sơmi rơmooc, nhãn hiệu DOOSUNG, biển kiểm soát 48R-001.05, mang tên Công ty TNHH MTV đầu tư xây dựng C, với giá 2.900.000.000 đồng. Để có tiền mở rộng hoạt động kinh doanh, ngày 03-01-2018, Phạm Tuấn H thế chấp xe ô tô và Sơmi rơmooc cho Ngân hàng thương mại cổ phần phát triển thành phố H, chi nhánh Đ để vay số tiền 1.800.000.000 đồng, thời hạn vay 60 tháng...”
+ Kết quả giải quyết: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 55 của Bộ luật Hình sự, tổng hợp hình phạt buộc bị cáo Phạm Việt H phải chấp hành chung của 03 tội là 27 (Hai mươi bảy) năm tù.
1.6/ Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 50/2022/HS-PT
+ Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng.
+ Trích dẫn nội dung: “S sinh năm 1990, trú tỉnh Quảng Bình là Viên chức của Văn phòng đăng ký đất đai trực thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Quảng Bình. Nguyễn Tiến S biết ông Nguyễn Duy D đang có nhu cầu chuyển đổi mục đích sử dụng đất từ đất trồng rừng sản xuất sang đất ở, xin cấp thêm diện tích sử dụng đất và hiến đất làm đường giao thông tại một số thửa đất ở phường Đ, thành phố Đ để phân lô, tách thửa. Nguyễn Tiến S đã giới thiệu với ông D là S có nhiều mối quan hệ, có khả năng làm được thủ tục chuyển đổi mục đích sử dụng đất, nên ông D tin tưởng và đồng ý nhờ S làm thủ tục, tiền chi phí ông D sẽ chuyển khoản theo yêu cầu của S. Để tạo thêm niềm tin, S đưa cho ông D thêm hai số điện thoại 0528452528, 0983292782 và giới thiệu đây là số điện thoại của anh Nguyễn Hữu H - Trưởng phòng Quy Hoạch và đăng ký đất đai thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Quảng Bình để liên lạc, nhưng đây là số điện thoại do S sử dụng, mạo danh anh H trực tiếp nhắn tin lừa gạt ông D. Ngoài ra, Nguyễn Tiến S còn tự soạn thảo một Quyết định chuyển đổi mục đích sử dụng đất, tự điền số 6598 và lấy ngày 23/12/2020, sau đó S lấy một văn bản có chữ ký và con dấu của ông Hoàng Quốc V - Phó Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Quảng Bình, cắt đoạn văn bản có chữ ký và con dấu dán vào Quyết định trên rồi chụp ảnh và gửi qua Zalo cho ông Nguyễn Duy D.”
+ Kết quả giải quyết: xử phạt bị cáo Nguyễn Tiến S 17 năm tù.
2/ Những lưu ý khi giải quyết vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản
- Xác định có hay không dấu hiệu tội phạm trong hành vi của chủ thể:
- Về xác định giá trị tài sản bị chiếm đoạt
- Xác định đầy đủ khách thể bị xâm hại
3/ Một số câu hỏi liên quan
3.1/ Khi nào bản án hình sự có hiệu lực pháp luật?
Về nguyên tắc, khi bản án, Quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật thì các cá nhân, cơ quan, tổ chức phải chấp hành nghiêm, và có hiệu lực bắt buộc không bị kháng cáo kháng nghị.
Theo Điều 343 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, “Bản án, quyết định và những phần của bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án không bị kháng cáo, kháng nghị thì có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị”.
Khoản 1 Điều 333 của Bộ luật này quy định: “Thời hạn kháng cáo đối với bản án sơ thẩm là 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với bị cáo, đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày họ nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật”.
Ngày kháng cáo được xác định theo khoản 3 của Điều này như sau:
“a) Trường hợp đơn kháng cáo gửi qua dịch vụ bưu chính thì ngày kháng cáo là ngày theo dấu bưu chính nơi gửi;
b) Trường hợp đơn kháng cáo gửi qua Giám thị Trại tạm giam, Trưởng Nhà tạm giữ thì ngày kháng cáo là ngày Giám thị Trại tạm giam, Trưởng Nhà tạm giữ nhận được đơn. Giám thị Trại tạm giam, Trưởng Nhà tạm giữ phải ghi rõ ngày nhận đơn và ký xác nhận vào đơn;
c) Trường hợp người kháng cáo nộp đơn kháng cáo tại Tòa án thì ngày kháng cáo là ngày Tòa án nhận đơn. Trường hợp người kháng cáo trình bày trực tiếp với Tòa án thì ngày kháng cáo là ngày Tòa án lập biên bản về việc kháng cáo”.
Bên cạnh đó, trong một số trường hợp, kháng cáo quá thời hạn nêu trên được chấp nhận. Bởi vì, khoản 1 Điều 335 của Bộ luật này quy định: “việc kháng cáo quá hạn được chấp nhận nếu có lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan mà người kháng cáo không thể thực hiện được việc kháng cáo trong thời hạn do Bộ luật này quy định”.
Theo khoản 1 Điều 337 của Bộ luật này, “thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp đối với bản án của Tòa án cấp sơ thẩm là 15 ngày, của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là 30 ngày kể từ ngày Tòa án tuyên án”.
Căn cứ các quy định nêu trên, nếu không bị kháng cáo, kháng nghị, bản án hình sự sơ thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
3.2/ Ai có quyền kháng cáo bản án của Tòa án khi còn thời hiệu kháng cáo?
Căn cứ điều 331 của Bộ luật này quy định những người sau đây có quyền kháng cáo:
“1. Bị cáo, bị hại, người đại diện của họ có quyền kháng cáo bản án hoặc quyết định sơ thẩm.
2. Người bào chữa có quyền kháng cáo để bảo vệ lợi ích của người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất mà mình bào chữa.
3. Nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người đại diện của họ có quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến việc bồi thường thiệt hại.
4. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người đại diện của họ có quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ.
5. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự là người dưới 18 tuổi hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất có quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của người mà mình bảo vệ.
6. Người được Tòa án tuyên không có tội có quyền kháng cáo về các căn cứ mà bản án sơ thẩm đã xác định là họ không có tội”.
3.3./ Thủ Tục kháng cáo Bản án Hình sự chưa có hiệu lực pháp luật như thế nào?
Về thủ tục kháng cáo, người kháng cáo phải gửi đơn kháng cáo đến Tòa án đã xét xử sơ thẩm hoặc Tòa án cấp phúc thẩm. Trường hợp bị cáo đang bị tạm giam, Giám thị Trại tạm giam, Trưởng Nhà tạm giữ phải bảo đảm cho bị cáo thực hiện quyền kháng cáo, nhận đơn kháng cáo và chuyển cho Tòa án cấp sơ thẩm đã ra bản án, quyết định bị kháng cáo. Người kháng cáo có thể trình bày trực tiếp với Tòa án đã xét xử sơ thẩm hoặc Tòa án cấp phúc thẩm về việc kháng cáo.
Trên đây là một số thông tin cơ bản mà ACC muốn đề nhật với bạn đọc một số bản án tiêu biểu về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản mới nhất năm 2023. Trong quá trình cập nhật, nếu như quý khách hàng có thắc mắc thì vui lòng liên hệ với chúng tôi qua website: accgroup.vn.
Nội dung bài viết:
Bình luận