Tố tụng dân sự, Luật tố tụng dân sự là một thuật ngữ mà chúng ta nghe và bắt gặp rất nhiều. Dưới đây, Luật Dương Gia cung cấp thông tin giải đáp các thắc mắc như: Khái niệm pháp luật tố tụng dân sự là gì? Đối tượng và phạm vi điều chỉnh của Luật tố tụng dân sự là gì? Các nguyên tắc cụ thể của Bộ luật tố tụng dân sự là gì? Các nguyên tắc này được thể hiện như thế nào trong tố tụng dân sự?1. Luật tố tụng dân sự là gì?
Trong khoa học pháp lý, tố tụng dân sự là trình tự, thủ tục do pháp luật quy định để giải quyết vụ việc dân sự và thi hành án dân sự.
Luật tố tụng dân sự là một ngành luật trong hệ thống pháp luật, bao gồm hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong tố tụng dân sự nhằm bảo đảm việc giải quyết việc dân sự, thi hành án dân sự nhanh chóng, đúng đắn, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức và lợi ích của Nhà nước.2. Những vấn đề do Luật tố tụng dân sự điều chỉnh:
Luật tố tụng dân sự có đối tượng rất rộng. Là quan hệ giữa Tòa án, Viện kiểm sát, cơ quan thi hành án dân sự, đương sự, đại diện của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, người làm chứng, người giám định, người phiên dịch, người định giá tài sản và những người có liên quan can thiệp vào tố tụng dân sự. Theo đó, có thể chia thành các loại quan hệ sau:
- Quan hệ giữa Tòa án, Viện kiểm sát, cơ quan thi hành án dân sự với đương sự, người đại diện của họ, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, người làm chứng, người giám định, người phiên dịch, chuyên gia về bất động sản và những người có liên quan;
- Quan hệ giữa Toà án, Viện kiểm sát và cơ quan thi hành án dân sự;
- Quan hệ giữa các bên liên quan và những người có liên quan
Các quan hệ là đối tượng điều chỉnh của luật tố tụng dân sự có đặc điểm chỉ phát sinh trong thủ tục tố tụng tại toà án. Còn Tòa án, cơ quan thi hành án dân sự là chủ thể có vai trò quyết định trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự và tổ chức thi hành án dân sự.3. Phương pháp điều chỉnh pháp luật tố tụng dân sự:
Phương pháp điều chỉnh bộ luật tố tụng dân sự phụ thuộc vào tính chất, đặc điểm của quan hệ xã hội là đối tượng điều chỉnh. Vì đối tượng điều chỉnh của pháp luật tố tụng dân sự thực chất là quan hệ giữa các cơ quan nhà nước như Toà án, Kiểm sát viên, cơ quan thi hành án dân sự với những người tham gia quá trình giải quyết vụ án như đương sự, người đại diện của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, v.v. Vì vậy, pháp luật tố tụng dân sự điều chỉnh các quan hệ này bằng hai phương thức mệnh lệnh và định đoạt.
Phương thức mệnh lệnh thể hiện ở chỗ các chủ thể khác phải phục tùng toà án, viện kiểm sát và tổ chức thi hành án dân sự. Quyết định của Toà án, Viện kiểm sát, Cơ quan thi hành án dân sự có giá trị bắt buộc đối với các chủ thể tố tụng khác, nếu không sẽ bị thi hành.
Với đặc thì giải quyết trong các vụ việc dân sự là các quan hệ dân sự, kinh doanh, thương mại, lao động, hôn nhân và gia đình, nên các đương sự trong các quan hệ này có quyền tự quyết định quyền lợi của mình khi tham gia các quan hệ đó. Để đảm bảo quyền tự quyết định đó, phương pháp định đoạt chính là phương pháp điều chỉnh các quan hệ thuộc đối tượng của Luật Tố tụng Dân sự.4. Nguyên tắc đặc thù của Luật Tố tụng Dân sự:
Nguyên tắc của mỗi ngành luật luôn được coi là kim chỉ nam cho chính ngành luật đó, là những tư tưởng chỉ đạo, định hướng hoạt động xây dựng cũng như thực hiện pháp luật của đều phải tuân thủ các nguyên tắc này. Luật Tố tụng Dân sự cũng vậy, nguyên tắc của Luật Tố tụng Dân sự có thể chia thành các nhóm chính như: Các nguyên tắc thể hiện tính tuân thủ pháp luật của hoạt động tố tụng dân sự;
Các nguyên tắc về tổ chức hoạt động xét xử của tòa án; Các nguyên tắc bảo đảm quyền tham gia tố tụng của đương sự; Các nguyên tắc thể hiện trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng;… Trong đó, các nguyên tắc đặc thù của Luật Tố tụng Dân sự có thể kể đến như:
4.1. Nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự:
Nguyên tắc quyền tự định đoạt là một trong những nguyên tắc quan trọng của luật tố tụng hình sự. Quyền tự quyết của chủ thể dữ liệu là quyền chủ thể dữ liệu tự quyết định các quyền và lợi ích của mình và lựa chọn các biện pháp pháp lý cần thiết để bảo vệ các quyền và lợi ích này. Điều 5 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định về quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự:
"Thứ nhất. Đương sự có quyền quyết định việc khởi kiện và yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự. Tòa án chỉ thụ lý, giải quyết vụ việc dân sự khi có yêu cầu, yêu cầu hợp pháp của các bên đương sự và chỉ giải quyết trong khuôn khổ yêu cầu, yêu cầu đó."
2. Khi giải quyết vụ việc dân sự, đương sự có quyền chấm dứt, thay đổi yêu cầu, thỏa thuận một cách tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.
Cơ sở của nguyên tắc này là quyền tự định đoạt trong quan hệ dân sự. Quan hệ dân sự được phát sinh, xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt theo nguyên tắc tự nguyện, thoả thuận của các bên. Luật tố tụng dân sự là ngành luật quy định trình tự, thủ tục giải quyết các yêu cầu, tranh chấp phát sinh từ các quan hệ pháp luật thực chất (quan hệ pháp luật dân sự nói chung) nên nó luôn gắn với luật thực chất. Từ đó, Bộ luật tố tụng dân sự quy định quyền tự định đoạt của đương sự.
Thứ nhất, nguyên tắc này xác định quyền tự quyết định của đương sự về việc có tham gia tố tụng dân sự hay không, tức là chủ sở hữu hoàn toàn có quyền tự do khởi kiện hoặc yêu cầu giải quyết việc dân sự. Các chủ thể có thể tự mình thực hiện quyền này hoặc thông qua người đại diện hợp pháp để thực hiện quyền này. Bên cạnh quyền khởi kiện, nguyên tắc này còn được thể hiện thông qua quyền phản tố của bị đơn và quyền đưa ra yêu cầu độc lập với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Trong quá trình tố tụng, đương sự có quyền sửa đổi, bổ sung, rút yêu cầu của mình trong giai đoạn chuẩn bị xét xử và trong quá trình xét xử. Hơn nữa, các bên liên quan có đầy đủ quyền tự định đoạt trong việc hòa giải, tự thỏa thuận; ...
Ghi nhận quyền tự định đoạt của đương sự là một nguyên tắc, pháp luật tố tụng dân sự đã bảo đảm cho đương sự được bảo đảm quyền và lợi ích của mình. Đồng thời, nguyên tắc này cũng xác định rõ trách nhiệm của Tòa án trong việc bảo đảm bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự một cách tốt nhất. Và nguyên tắc này cũng giúp các đương sự tìm ra cách giải quyết tranh chấp của mình một cách hiệu quả.
4.2. Nguyên tắc chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự:
Mục 6 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 nêu nguyên tắc chứng cứ và chứng cứ trong tố tụng dân sự như sau:
“Thứ nhất, đương sự có quyền và nghĩa vụ tích cực thu thập, giao nộp chứng cứ cho Tòa án, chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp.
Cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện hoặc người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác có quyền và nghĩa vụ thu thập, cung cấp chứng cứ, chứng minh với tư cách là đương sự.
2. Tòa án có trách nhiệm hỗ trợ các bên liên quan trong việc thu thập chứng cứ và chỉ thu thập, xác minh chứng cứ trong những trường hợp do Bộ luật này quy định.
Nguyên tắc chứng minh và chứng minh trong tố tụng dân sự xác định khi trình bày yêu cầu hoặc bác bỏ yêu cầu của người khác, đương sự có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ để làm rõ căn cứ yêu cầu của mình hoặc căn cứ để bác bỏ yêu cầu của người khác. Trước hết, khi khởi kiện, nguyên đơn có quyền và nghĩa vụ chứng minh việc thực hiện quyền yêu cầu, quyền khởi kiện của mình là có căn cứ và hợp pháp. Và nếu bị đơn không đồng ý với yêu cầu của nguyên đơn thì bị đơn cũng phải đưa ra chứng cứ để chứng minh cho sự phản đối này.
Trong trường hợp cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác thì họ cũng có các quyền và nghĩa vụ như các bên liên quan. Mặc dù cơ quan, tổ chức, cá nhân không có quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm, thách thức nhưng các cơ quan, tổ chức, cá nhân này là chủ thể của yêu cầu nên họ cũng phải chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp.
Tòa án chỉ hỗ trợ đương sự thực hiện nghĩa vụ chứng minh trong trường hợp họ không thể tự mình thực hiện được và trong những trường hợp pháp luật quy định. Trường hợp các đương sự không cung cấp, giao nộp chứng cứ hoặc đưa ra không đủ chứng chứ thì Tòa án giải quyết vụ việc dân sự theo chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ vụ việc và do Tòa án thu thập được.4.3. Nguyên tắc hòa giải trong tố tụng dân sự:
Nguyên tắc hòa giải trong tố tụng dân sự là một nguyên tắc cơ bản và đặc trưng trong Tố tụng dân sự. Nguyên tắc xác định trách nhiệm của Tòa án trong việc hòa giải vụ việc dân sự và tạo điều kiện thuận lợi cho các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự trên cơ sở tự nguyện (tự nguyện tham gia hòa giải, tự nguyện về nội dung hòa thỏa thuận), nội dung thỏa thuận không vi phạm điều cấm của pháp luật, trái với đạo đức xã hội. Nguyên tắc này được ghi nhận tại Điều 10 Bộ Luật Tố tụng Dân sự 2015: “Tòa án có trách nhiệm tiến hành hòa giải và tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự theo quy định của Bộ luật này.”
Nguyên tắc này được thể hiện trong giai đoạn chuẩn bị giải quyết vụ việc, Tòa án có trách nhiệm tiến hành hòa giải cho các đương sự( Khoản 1 Điều 205 Bộ Luật Tố tụng Dân sự 2015) thông qua phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng chứ và hòa giải. Trong thủ tục hòa giải, Tòa án đóng vai trò là một bên độc lập, trung gian giúp các bên đương sự thương lượng, thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự. Tại phiên tòa, phiên giải quyết vụ án, Tòa án tạo điều kiện tốt nhất để các bên đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án.
Nguyên tắc hòa giải trong tố tụng dân sự có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với việc giải quyết vụ án dân sự. Đây là cơ hội để các bên thỏa thuận đi vào chiều sâu giải quyết vụ án, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thi hành án. đồng thời giúp cho hoạt động giải quyết vụ án dân sự tại tòa án được hiệu quả và linh hoạt hơn.
Nội dung bài viết:
Bình luận