Tội phạm sử dụng công nghệ cao tiếng Anh là gì?

Xã hội ngày càng phát triển, đặc biệt là hệ thống công nghệ thông tin, vì thế tội phạm công nghệ cao ngày càng nhiều và lộng hành hơn. Tương tự tội phạm truyền thống thì tội phạm công nghệ cao cũng thực hiện các hành vi phạm tội vi phạm pháp luật nhằm mục đích tư lợi cá nhân. Tuy nhiên, tội phạm công nghệ cao phạm tội bằng các cách tinh vi hơn tội phạm truyền thống, thực hiện hành vi phạm tội bằng các công cụ, kĩ thuật hiện đại và tiên tiến phát triển hơn; thiết bị công nghệ và hệ thống mạng. Bài viết dưới đây của ACC về Tội phạm sử dụng công nghệ cao tiếng Anh là gì? hi vọng đem đến nhiều thông tin chi tiết và cụ thể đến Quý bạn đọc.

Tội phạm sử dụng công nghệ cao và phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ cao tại Việt Nam

Tội phạm sử dụng công nghệ cao tiếng Anh là gì?

I. Thế nào là tội phạm sử dụng công nghệ cao?

Xét về khái niệm “tội phạm sử dụng công nghệ cao”, hiện nay luật pháp của nhiều nước trên thế giới như Australia, Mỹ, Anh đã có định nghĩa liên quan đến tội phạm này như: Tội phạm công nghệ cao (high-tech crime); tội phạm máy tính (computer crime): Tội phạm liên quan đến máy tính (computer-related crime); tội phạm mạng (cybercrime)... Ví dụ trong luật hình sự năm 1995 của Australia và phần 10.7 của luật Thịnh vượng chung (Commonwealth legislation - Part 10.7: Computer Offences), tội phạm công nghệ cao (hi- tech crime) được định nghĩa “là sự xâm nhập máy tính một cách trái phép; sự sửa đổi trái phép dữ liệu bao gồm việc phá hủy dữ liệu; tấn công từ chối dịch vụ (DoS); Tấn công từ chối dịch vụ phân tán (DdoS) có sử dụng botnets; tạo ra và phân phối phần mềm độc hại”.

Tại Việt Nam, theo Khoản 1 điều 3 Nghị định số 25/2014/NĐ-CP của Chính phủ ngày 07 tháng 4 năm 2014 quy định: “Tội phạm có sử dụng công nghệ cao là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự có sử dụng công nghệ cao”. Theo khoản 1 điều 3 của Luật Công nghệ cao năm 2008 quy định: Công nghệ cao là công nghệ có hàm lượng cao về nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; được tích hợp từ thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại; tạo ra sản phẩm có chất lượng, tính năng vượt trội, giá trị gia tăng cao, thân thiện với môi trường; có vai trò quan trọng đối với việc hình thành ngành sản xuất, dịch vụ mới hoặc hiện đại hóa ngành sản xuất, dịch vụ hiện có. Giáo trình “Những vấn đề cơ bản về phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao” của Học viện Cảnh sát nhân dân cũng có đề cập đến khái niệm về tội phạm sử dụng công nghệ cao.

Theo đó, tội phạm sử dụng công nghệ cao là: “Tội phạm được thực hiện bằng việc cố ý sử dụng tri thức, kỹ năng, công cụ, phương tiện công nghệ thông tin ở trình độ cao tác động trái pháp luật đến thông tin số được lưu trữ, xử lý, truyền tải trong hệ thống máy tính, xâm phạm đến trật tự an toàn thông tin, gây tổn hại lợi ích của Nhà nước, quyền và các lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân”.

II. Phân loại tội phạm sử dụng công nghệ cao

Hiện nay tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin mạng viễn thông được quy định trong Bộ luật Hình sự năm 2015 từ điều 285 đến điều 294.

Theo đó, tội phạm sử dụng công nghệ cao có thể chia ra thành hai nhóm:

+ Tội phạm sử dụng máy tính, thiết bị số, mạng máy tính, mạng viễn thông gây tổn hại tính bảo mật, tính toàn vẹn và tính khả dụng của hệ thống máy tính (từ điều 285 đến điều 289). Từ đó làm hư hỏng, tác động trực tiếp đến thiết bị và hệ thống máy tính. Xâm nhập vào để thực hiện các hành vi phạm tội cụ thể.

+ Nhóm Tội phạm sử dụng máy tính, thiết bị số, mạng máy tính, mạng viễn thông làm công cụ, phương tiện phạm tội (từ điều 290 đến điều 294). Khi đó, công cụ thể hiện việc sử dụng, khai thác trực tiếp công dụng của máy tính để tìm kiếm lợi ích trái pháp luật. Trong khi phương tiện mang đến cách thức, điều kiện và cơ sở để thực hiện tội phạm.

III. Đặc điểm của tội phạm công nghệ cao

Thứ nhất, tội phạm sử dụng công nghệ cao xâm phạm vào trật tự an toàn thông tin, gây tổn hại cho lợi ích của Nhà nước, quyền và các lợi ích hợp pháp của các tổ chức cá nhân. Cần nhận thức rằng, khách thể loại của các tội phạm sử dụng công nghệ cao là trật tự an toàn thông tin, trong đó, trật tự an toàn thông tin được hiểu là những quy tắc xử sự (pháp lý, đạo đức hoặc quy tắc chuyên môn... ) được Nhà nước và xã hội xác lập nhằm đảm bảo an toàn thông tin được lưu trữ, xử lý trong các hệ thống máy tính, quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức trong việc khai thác, sử dụng các thông tin đó. Một tội phạm sử dụng công nghệ cao cụ thể có thể tác động đến một hoặc cả hai khía cạnh của trật tự an toàn thông tin.

Trong những hành vi phạm tội sử dụng công nghệ cao có những hành vi thuần tuý xâm phạm an toàn thông tin. Những hành vi đó tác động trực tiếp đến 3 thuộc tính của an toàn thông tin đó là:

Tính bảo mật (Confidentiality): Là khả năng đảm bảo cho thông tin trong hệ thống máy tính không bị tiếp cận, được xem và tiết lộ bởi những người không có những quyền đó.

-  Tính toàn vẹn (Integrity): Là khả năng đảm bảo thông tin trên hệ thống máy tính không bị thay đổi hay xoá bỏ bởi những người không có những quyền đó.

-  Tính khả dụng (Availability): là khả năng đảm bảo cho thông tin trên hệ thống máy tính luôn sẵn sàng để khai thác, sử dụng bởi những người có quyền khai thác, sử dụng hợp pháp.

Thứ hai, tội phạm sử dụng công nghệ cao phải là những hành vi được xác định là tội phạm theo quy định của Bộ luật Hình sự. Ở Việt Nam, một hành vi chỉ được coi là tội phạm khi hành vi đó được quy định trong Bộ luật Hình sự. Vì vậy, khi xem xét một hành vi xâm phạm đến trật tự an toàn thông tin, gây tổn hại cho xã hội có phải là tội phạm sử dụng công nghệ cao phải xem hành vi đó có được quy định trong Bộ luật Hình sự hay không.

Thứ ba, tội phạm sử dụng công nghệ cao được thực hiện bằng việc sử dụng tri thức, kỹ năng, công cụ, phương tiện công  nghệ thông tin ở trình độ cao. Nghiên cứu cách xác định của Công ước Budapest năm 2011 về tội phạm mạng của Liên minh châu Âu cho thấy các hành vi sau đây được chấp nhận phổ biến là tội phạm sử dụng công nghệ cao như: Truy cập bất hợp pháp; cản trở bất hợp pháp việc truyền tải dữ liệu máy tính; can thiệp trái phép vào dữ liệu; can thiệp trái phép vào hệ thống; Sử dụng trái phép thiết bị; giả mạo liên quan đến máy tính; gian lận liên quan đến máy tính; vi phạm liên quan đến hình ảnh trẻ em khiêu dâm; vi phạm quyền tác giả và quyền liên quan qua hệ thống máy tính.

Thứ tư, về chủ thể, tội phạm sử dụng công nghệ cao có thể được thực hiện bằng bất kỳ ai có đủ năng lực trách nhiệm hình sự theo quy định của luật hình sự. Tuy nhiên, xuất phát từ tính chất của hành vi phạm tội, chủ thể trực tiếp thực hiện tội phạm sử dụng công nghệ cao phải là những người có tri thức và kỹ năng cần thiết để trực tiếp khai thác, sử dụng thiết bị, công cụ, phương tiện công nghệ hoặc trực tiếp phát triển, ứng dụng công nghệ.

Thứ năm, tội phạm sử dụng công nghệ cao được thực hiện bởi lỗi cố ý. Khi thực hiện tội phạm sử dụng công nghệ cao, người phạm tội buộc phải ý thức rõ hành vi của mình là trái quy định pháp luật, có thể gây hậu quả xấu cho các tổ chức, cá nhân có liên quan nhưng vẫn thực hiện, mong muốn hoặc để mặc cho những hậu quả xấu xảy ra. Động cơ, mục đích phạm tội sử dụng công nghệ cao không phải là yếu tố bắt buộc trong cấu thành tội phạm. Tuy nhiên, trong thực tế, tội phạm sử dụng công nghệ cao có thể được thực hiện do vụ lợi hoặc vi lợi ích trong cạnh tranh hay giải quyết mâu thuẫn, trả thù cá nhân... hoặc cũng có thể là sự tò mò, thử nghiệm, muốn chứng tỏ khả năng của bản thân.

Trên đây là bài viết mà chúng tôi cung cấp đến Quý bạn đọc về Tội phạm sử dụng công nghệ cao tiếng Anh là gì? Trong quá trình tìm hiểu và nghiên cứu, nếu như quý bạn đọc còn thắc mắc hay quan tâm đến Tội phạm sử dụng công nghệ cao tiếng Anh là gì?, quý bạn đọc vui lòng liên hệ với chúng tôi để được hướng dẫn.

Nội dung bài viết:

    Hãy để lại thông tin để được tư vấn

    comment-blank-solid Bình luận

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo