Hợp đồng nói chung là sự thỏa thuận giữa các bên về việc phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ. chủ thể là một trong những điều kiện quan trọng để xác định hiệu lực của hợp đồng. Vậy nguyên tác tự do trong giao kết hợp đồng là gì? Hãy cùng ACC theo dõi bài viết dưới đây.

Hợp đồng dân sự là gì?
Hợp đồng dân sự là một khái niệm có nguồn gốc lâu đời và thông dụng nhất, là một trong những chế định quan trọng của pháp luật Dân sự. Có rất nhiều cách định nghĩa “Hợp đồng dân sự”, chẳng hạn:
Theo phương diện chủ quan: Hợp đồng dân sự là một giao dịch dân sự, trong đó các bên có sự thỏa thuận thống nhất ý chí với nhau nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự cho nhau.
Theo phương diện khách quan: Hợp đồng dân sự là một loại quan hệ xã hội được quy phạm pháp luật dân sự điều chỉnh và thể hiện dưới một hình thức nhất định.
Dưới góc độ pháp luật thực định, khái niệm hợp đồng dân sự tại Việt Nam được quy định tại Điều 385 Bộ luật dân sự năm 2015, theo đó:
“Hợp đồng dân sự là sự thoả thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự.”
Phân tích nguyên tắc tự do trong giao kết hợp đồng
Quyền được tự do, bình đẳng, tự nguyện giao kết HĐ
Hợp đồng là sự thỏa thuận và thống nhất về mặt ý chí giữa các chủ thể, nhưng không phải tất cả những thỏa thuận giữa các chủ thể đều là hợp đồng. Sự thỏa thuận chỉ có thể trở thành hợp đồng khi ý chí của các chủ thể được thể hiện (trong sự thỏa thuận) phù hợp với “ý chí thực” của họ.
Quyền tự do giao kết hợp đồng được thể hiện trong:
- Điều 11 Luật Thương mại năm 2005 quy định về nguyên tắc tự do, tự nguyện thỏa thuận trong hoạt động thương mại: “1. Các bên có quyền tự do thoả thuận không trái với các quy định của pháp luật, thuần phong mỹ tục và đạo đức xã hội để xác lập các quyền và nghĩa vụ của các bên trong hoạt động thương mại. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ các quyền đó; 2. Trong hoạt động thương mại, các bên hoàn toàn tự nguyện, không bên nào được thực hiện hành vi áp đặt, cưỡng ép, đe doạ, ngăn cản bên nào”.
- Theo Điều 385 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì “Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự” và quy định tại Điều 116 Bộ luật Dân sự năm 2015: “Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”. Một trong những điều kiện để hợp đồng nói chung và hợp đồng trong lĩnh vực thương mại nói riêng có hiệu lực, đó là: “Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội” (điểm c khoản 1 Điều 117 Bộ luật Dân sự năm 2015).
Trên thực tế, quyền tự do, bình đẳng giao kết hợp đồng không được thực hiện trong một số lĩnh vực nhất định. Điển hình nhất là các hợp đồng cung cấp, các dịch vụ công từ các chủ thể là các công ty nhà nước độc quyền phân phối các dịch vụ như điện, nước, điện thoại.
Quyền được tự do lựa chọn đối tác giao kết hợp đồng
Pháp luật Việt Nam có quy định điều kiện các chủ thể được quyền giao kết các loại hợp đồng: Đối với cá nhân phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi (Điều 15, 16 Bộ luật Dân sự năm 2015); đại diện của pháp nhân (Điều 85 Bộ luật Dân sự năm 2015); thương nhân (khoản 1 Điều 6 Luật Thương mại năm 2005). Hệ thống pháp luật hiện hành không quy định cá nhân, pháp nhân, hay thương nhân, người sử dụng lao động hay người lao động nào được quyền giao kết hợp đồng với nhau. Điều này thể hiện sự tôn trọng quyền được lựa chọn đối tác giao kết hợp đồng cho các chủ thể kinh doanh.
Ngoại lệ: Việc lựa chọn đối tác trong giao kết hợp đồng có thể bị ngăn cản hoặc một số chủ thể được ưu tiên: Ưu tiên mua nhà thuộc sở hữu chung (điều 126 Luật Nhà ở); Cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi biếu quyết trong công ty không được chuyển nhượng cổ phần đó cho người khác,… pháp luật cạnh tranh nghiêm cấm việc các doanh nghiệp thỏa thuận nhằm mục đích thực hiện độc quyền, chiếm vị trí ưu thế, nổi trội trên thị trường nhằm ngăn cản, hạn chế hoặc làm sai lệch quy luật cạnh tranh trên thị trường (Luật Cạnh tranh),…
Quyền tự do thỏa thuận nội dung giao kết hợp đồng
Để đảm bảo quyền và lợi ích của các bên khi thực hiện quyền tự do thỏa thuận nội dung hợp đồng, Bộ luật Dân sự năm 2015, Luật Thương mại năm 2005, Bộ luật Lao động năm 2019 và các nghị định hướng dẫn đều có những quy định về nội dung của hợp đồng theo hướng các chủ thể phải thỏa thuận đầy đủ các điều khoản chủ yếu để đảm bảo hiệu lực của hợp đồng; thỏa thuận về nội dung hợp đồng không thể trái với các nội dung thường lệ được quy định bởi pháp luật.
Luật Thương mại năm 2005 thể hiện cụ thể hơn quyền này thông qua việc quy định về các hợp đồng thương mại: Quyền và nghĩa vụ của các bên trong các hợp đồng mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, xúc tiến thương mại (khuyến mại, quảng cáo, trưng bày, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ, hộ trợ, triển lãm thương mại), trung gian thương mại (đại diện cho thương nhân, môi giới thương mại, ủy thác mua bán hàng hóa, đại lý thương mại) và một số hợp đồng thương mại khác (gia công thương mại, đấu giá hàng hóa, đầu thầu hàng hóa, dịch vụ, dịch vụ logistic, quá cảnh hàng hóa, dịch vụ giám định, cho thuê hàng hóa, nhượng quyền thương mại) chỉ được Luật Thương mại năm 2005 điều chỉnh khi các bên không có thỏa thuận trong hợp đồng.
Như vậy, quyền tự do thỏa thuận nội dung hợp đồng của các bên bị giới hạn bởi các quy định của pháp luật nhằm bảo đảm sự thỏa thuận của các bên không xâm hại đến những lợi ích mà pháp luật cần bảo vệ hay trật tự công cộng (các nguyên tắc cơ bản của pháp luật) như việc các bên không thể tự thỏa thuận trước trong hợp đồng việc bồi thường thiệt hại hợp đồng bằng một mức ấn định trước trong hợp đồng, vì nguyên tắc bồi thường thiệt hại của pháp luật Việt Nam là chỉ chấp nhận cho việc bồi thường đối với những thiệt hại thực tế từ hành vi vi phạm hợp đồng của bên kia (Điều 302 và 303 Luật Thương mại năm 2005).
Quyền được tự do thỏa thuận thay đổi nội dung trong quá trình thực hiện
Quyền tự do thỏa thuận để thay đổi nội dung, đình chỉ hay hủy bỏ hợp đồng đã giao kết trong quá trình thực hiện hợp đồng là sự khẳng định quyền trọn vẹn của các chủ thể kinh doanh trong quá trình ký kết và thực hiện hợp đồng. Quy định này có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với việc tôn trọng sự quyết định ý chí của các bên trong quá trình thực hiện hợp đồng, có thể là quyết định thay đổi một phần hợp đồng, hoặc quyết định chấm dứt hợp đồng khi ý chí của cả hai bên trong hợp đồng muốn thay đổi, bổ sung hợp đồng đã ký kết.
Về điều kiện sửa đổi, chấm dứt hợp đồng trước khi hết hạn, Bộ luật Dân sự năm 2015 cũng có ghi nhận vấn đề này, nhưng không gợi mở trong các nội dung hợp đồng, mà ghi nhận riêng về sửa đổi hợp đồng dân sự (Điều 421 Bộ luật Dân sự năm 2015), chấm dứt hợp đồng dân sự (Điều 422 Bộ luật Dân sự năm 2015). Những vấn đề này, sẽ được các bên thỏa thuận trong quá trình thực hiện hợp đồng. Bên cạnh đó, Luật Thương mại năm 2005 cũng có quy định ghi nhận về việc điều chỉnh các nội dung quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng thương mại khi các bên không có thỏa thuận về vấn đề này (ví dụ như trong HĐ cung ứng dịch vụ khách hàng có quyền thay đổi nội dung của HĐ sao cho hợp lý và phải chịu những chi phí hợp lý cho những thay đổi của mình,…)
Quyền được tự do thỏa thuận các điều kiện đảm bảo để thực hiện hợp đồng
Điều kiện đảm bảo thực hiện hợp đồng là một trong các nội dung cơ bản để quyết định sự thành công của hợp đồng, đảm bảo các quyền nghĩa vụ của hợp đồng được thực hiện bằng một giao dịch thế chấp tài sản, hoặc giao dịch bảo đảm thanh toán của tổ chức tín dụng, hoặc một bên thứ ba bằng một tài sản là bất động sản hay một nguồn tiền từ một tài khoản ngân hàng; điều kiện đảm bảo thực hiện hợp đồng có ý nghĩa rất quan trọng liên quan mật thiết đối với trách nhiệm tài chính hữu hạn phát sinh trong một hợp đồng.
Bộ luật Dân sự năm 2015 đã đảm bảo quyền tự do thỏa thuận các điều kiện đảm bảo để thực hiện hợp đồng bằng các quy định: (i) Về biện pháp đảm bảo thực hiện nghĩa vụ dân sự (Điều 292); (ii) Về cầm cố tài sản (từ Điều 309 đến Điều 316); (iii) Về thế chấp tài sản (từ Điều 317 đến Điều 327); (iv) Về đặt cọc, ký cược, ký quỹ (Điều 328 đến 334; (v) Về bảo lãnh (từ Điều 335 đến Điều 343); (vi) Về tín chấp (từ Điều 344 đến Điều 345) (vii) Về cầm giữ tài sản ( từ Điều 346 đến Điều 350).
Trong quan hệ dân sự, các bên có thể thỏa thuận bảo đảm một phần nghĩa vụ vì bên có nghĩa vụ không có đủ khả năng tài sản để bảo đảm toàn bộ nghĩa vụ. Các bên có thỏa thuận lựa chọn áp dụng một biện pháp bảo đảm phù hợp với tính chất của quan hệ nghĩa vụ và khả năng tài sản của mình hoặc pháp luật có quy định một số quan hệ nghĩa vụ phải có biện pháp bảo đảm. Nghĩa vụ được bảo đảm có thể là nghĩa vụ hiện tại, nghĩa vụ trong tương lai hoặc nghĩa vụ có điều kiện.
Quyền được tự do thỏa thuận cơ quan tài phán và luật giải quyết tranh chấp hợp đồng
Về quyền tự do lựa chọn luật giải quyết tranh chấp được thể hiện khá đa dạng: Khi có tranh chấp, các bên có thể tự quyết định việc giải quyết bằng một trong các hình thức sau đây: Thương lượng, hòa giải, trọng tài hoặc Tòa án. Quy định này được thể hiện tại Điều 317 Luật Thương mại năm 2005. Cùng với đó, các văn bản pháp luật có liên quan cũng ghi nhận về quyền tự do lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp. Pháp luật Việt Nam khuyến khích và ưu tiên các phương thức giải quyết tranh chấp là thương lượng, hòa giải. Tại Điều 7 Bộ luật Dân sự năm 2015 cũng ghi nhận: “Trong quan hệ dân sự, việc hòa giải giữa các bên phù hợp với quy định của pháp luật được khuyến khích”.
Đối với phương thức giải quyết tranh chấp bằng tố tụng Tòa án, Điều 70 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định về quyền và nghĩa vụ của đương sự, tại khoản 11 đã ghi nhận quyền và nghĩa vụ “Tự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án; tham gia hòa giải do Tòa án tiến hành”. Quy định này đã góp phần đảm bảo quyền tự do lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp của các bên. Điều 10 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 cũng có quy định: “Tòa án có trách nhiệm tiến hành hòa giải và tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự theo quy định của Bộ luật này”. Trong quá trình chuẩn bị xét xử, nếu các đương sự thỏa thuận được với nhau, Thẩm phán có thể ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự (Khoản 3 Điều 203 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015). Ngoài ra, theo quy định tại Điều 14 Luật Trọng tài thương mại năm 2010 thì, khi lựa chọn cơ quan tài phán là trọng tài thương mại thì: (i) Đối với tranh chấp không có yếu tố nước ngoài thì áp dụng pháp luật Việt Nam để giải quyết tranh chấp; (ii) Đối với tranh chấp có yếu tố nước ngoài, thì áp dụng pháp luật do các bên lựa chọn; (iii) Nếu các bên không có thỏa thuận về luật áp dụng thì Hội đồng trọng tài quyết định luật để giải quyết tranh chấp; (iv) Trường hợp pháp luật Việt Nam, pháp luật do các bên lựa chọn không có quy định cụ thể liên quan đến nội dung tranh chấp thì Hội đồng trọng tài được áp dụng tập quán quốc tế để giải quyết tranh chấp nếu việc áp dụng hoặc hậu quả của việc áp dụng đó không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.
Theo các quy định trên, chỉ ngoại trừ trường hợp đã được luật quy định thì các bên có quyền lựa chọn luật áp dụng để giải quyết tranh chấp theo sự thỏa thuận và khi lựa chọn hình thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại thì cơ hội lựa chọn luật áp dụng nước ngoài giải quyết tranh chấp được rộng hơn, còn lựa chọn Tòa án giải quyết tranh chấp thì hạn chế hơn.
Trên đây, ACC đã giúp bạn tìm hiểu cụ thể về nguyên tắc tự do trong giao kết hợp đồng. Trong quá trình tìm hiểu, nếu có câu hỏi thắc mắc xin vui lòng liên hệ website của Công ty Luật ACC để được giải đáp nhé.
Nội dung bài viết:
Bình luận