Tìm hiểu về hành vi pháp luật là gì? [Cập nhật 2024]

Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự chung, còn gọi là quy tắc xử sự, là những chuẩn mực xử sự của con người. Theo đó, hành vi là những phản ứng, hành vi được biểu hiện ra bên ngoài của con người trong những hoàn cảnh, điều kiện nhất định. Mọi hành vi đều được hình thành dựa trên sự nhận thức và điều khiển của chủ thể. Có nhiều loại hành vi của con người và bất kỳ hành vi nào của con người được pháp luật điều chỉnh và điều chỉnh đều được coi là hành vi hợp pháp.

1. Hành vi pháp lý là gì?

–  Hành vi pháp lý là những cách ứng xử biểu hiện ra bên ngoài của con người trong những tình huống nhất định được pháp lý quy định, điều chỉnh. Hành vi pháp lý luôn gắn liền với các quy định của pháp luật. Trong quy phạm pháp lý luôn có sự xác định một cách rõ ràng những hành vi nào của các chủ thể nào sẽ được coi là hành vi pháp luật. Hành vi pháp lý liên quan đến lĩnh vực và các mối quan hệ mà pháp lý điều chỉnh.

– Hành vi pháp lý có ý nghĩa rất lớn về mặt xã hội nên nó cần được giám sát chặt chẽ từ phía xã hội. Chủ thể hành vi pháp lý phải là những người có khả năng nhận thức, xác lập, kiểm soát được hoạt động của bản thân. Khả năng này do pháp lý quy định phụ thuộc vào độ tuổi và năng lực lý trí của chủ thể. Những người không có khả năng nhận thức hay điều khiển được hoạt động của bản thân thì không được coi là chủ thể hành vi pháp luật. Chẳng hạn, những người mất trí, những người mắc các chứng bệnh về thần kinh… dẫn đến tình trạng không nhận thức hoặc điều khiển được hoạt động của mình; đối với trẻ em đi nữa t do không thể hiểu biết hết những ý nghĩa xã hội của hành vi do mình thực hiện vì thế pháp lýkhông quy định hành vi của họ là hành vi pháp luật. Độ tuổi của chủ thể hành vi pháp lýđược quy định khác nhau trong các lĩnh vực và quan hệ pháp nhau, tuỳ theo tầm quan trọng và tính chất của quan hệ xã hội đó. Chủ thể hành vi pháp lý có thể là cá nhân, nhà chức trách, nhà nước, cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và các chủ thể pháp lý khác.

– Hành vi pháp lý có thể thực hiện bằng hành động như  thông qua cử chỉ, lời nói… hoặc không hành động nhưng phải được biểu hiện ra bên ngoài hiện thực khách quan, nghĩa là có thể nhìn thấy, nghe thấy, nhận thức được hành động hay không hành động đó. Hình thức biểu hiện cụ thể của hành vi pháp lýtrong một số trường hợp được pháp lýquy định rất chặt chẽ. Chẳng hạn, hành vi mua bán nhà phải được thể hiện bằng văn bản và có xác nhận của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Hành vi pháp lý thì có thể hợp pháp hoặc không hợp pháp. Đối với các hành vi pháp lý hợp pháp thì sẽ được nhà nước, xã hội hoan nghênh, khen thưởng, còn đối với các hành vi pháp lý không hợp pháp có thể bị lên án, trừng phạt tuỳ theo tính chất và mức độ nguy hiểm của chúng. Hành vi pháp lý có liên quan chặt chẽ, có ảnh hưởng và tác động lớn tới các hành vi xã hội khác như hành vi đạo đức, hành vi chính trị…, chúng là cơ sở góp phần tạo nên nhân cách mỗi con người.

2. Phân loại hành vi pháp lý:

Hành vi pháp lý rất đa dạng nên có thể phân chia chúng theo nhiều tiêu chuẩn khác nhau:

– Căn cứ vào sự phù hợp của hành vi với quy định của pháp lý có thể chia hành vi pháp lý thành hành vi hợp pháp và hành vi không hợp pháp. Hành vi hợp pháp là những hành vi được thực hiện phù hợp với yêu cầu, đòi hỏi của pháp luật. Hành vi không hợp pháp là hành vi được thực hiện trái với những quy định của pháp lý như không làm những việc mà pháp lý yêu cầu, làm những việc mà pháp lý cấm hoặc vượt quá phạm vi cho phép của pháp luật…

– Căn cứ vào phương thức biểu đạt ra bên ngoài hiện thực khách quan có thể chia hành vi pháp lýthành hành vi hành động và hành vi không hành động. Hành vi hành động là hành vi mà chủ thể phải thực hiện bằng những thao tác nhất định, chẳng hạn, hành vi ký hợp đồng, hành vi tham gia giao thông trên đường phố… Hành vi không hành động là hành vi mà chủ thể thực hiện nó bằng cách không tiến hành những thao tác nhất định, chẳng hạn, hành vi không tố giác người phạm tội…

– Căn cứ vào chủ thể thực hiện có thể chia hành vi pháp lý thành hành vi của cá nhân và hoạt động vi phạm pháp lý của tổ chức…

3. Một số nội dung liên quan đến hành vi pháp lý:

3.1 Trách nhiệm pháp lý:

– Trách nhiệm pháp lý là khả năng chịu hậu quả bất lợi( sự trừng phạt) của chủ thể vi phạm pháp luật, thể hiện ở mối quan hệ đặc biệt giữa nhà nước với chủ thể vi phạm pháp luật được các quy phạm pháp luật xác lập và điều chỉnh, trong đó chủ thể vi phạm pháp luật sẽ phải chịu những hậu quả bất lợi, những biện pháp cưỡng chế được pháp luật quy định.

Cơ sở của trách nhiệm pháp lý là vi phạm pháp luật, trách nhiệm pháp lý chỉ xuất hiện khi trong thực tế xảy ra vi phạm pháp luật, là hậu quả của hành vi vi phạm pháp luật. Nếu trong thực tế không xảy ra vi phạm pháp luật thì cũng không tồn tại trách nhiệm pháp lý. Trách nhiệm pháp lý chỉ được phép áp dụng đối với các chủ thể vi phạm pháp luật. Không truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với các chủ thể có hành vi trái pháp luật được thực hiện trong trường hợp: (a) Chủ thể không có năng lực trách nhiệm pháp lý (không có khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình); (b) Do sự kiện bất ngờ (chủ thể không thể thấy trước hoặc không buộc phải thấy trước hậu quả do hành vi của mình gây ra); (c) Do phòng vệ chính đáng; (d) Được thực hiện phù hợp với tình thế cấp thiết…

Trách nhiệm pháp lý luôn gắn liền với các quy định pháp luật, trong pháp luật luôn có sự quy định chặt chẽ về chủ thể có thẩm quyền truy cứu trách nhiệm pháp lý, về trình tự, thủ tục tiến hành xác định và truy cứu trách nhiệm pháp lý, về các biện pháp cưỡng chế được phép áp dụng đối với chủ thể vi phạm pháp luật…

* Ý nghĩa của việc quy định về trách nhiệm pháp lý:

Sở dĩ nhà nước quy định trách nhiệm pháp lý, thực hiện sự trừng phạt đối với những chủ thể vi phạm pháp luật là vì những lý do sau:

– Thứ nhất, trong quy phạm pháp luật, nhà nước đã đưa ra trước những cách xử sự có tính khuôn mẫu mà chủ thể được phép hoặc buộc phải lựa chọn khi gặp phải những tình huống mà pháp luật đã liệu. Và chủ thể khi ở vào hoàn cảnh, điều kiện (tình huống) đã được pháp luật dự liệu thì chỉ được phép hoặc buộc phải lựa chọn cho mình cách xử sự phù hợp từ những cách xử sự mà trong quy phạm pháp luật đã dự tính cho trường hợp đó.

– Thứ hai, các chủ thể pháp luật (trong trạng thái bình thường) luôn hoạt động có lý trí (họ ý thức được việc làm của mình, nghĩa là, họ có khả năng nhận thức, điều khiển được hành vi của mình và hậu quả do nó gây ra cho xã hội) và có tự do ý chí (họ có khả năng và điều kiện để có thể tự lựa chọn cho mình cách xử sự có thể có trong hoàn cảnh, điều kiện nhất định). Vì vậy, họ có đủ khả năng và phải chịu trách nhiệm về cách xử sự (hành vi) đã lựa chọn của mình. Nếu chủ thể chọn cách xử sự trái với ý chí của nhà nước đã thể hiện trong quy phạm pháp luật (không lựa chọn cách xử sự mà nhà nước cho phép hoặc buộc phải thực hiện trong trường hợp đó) thì chủ thể phải chịu trách nhiệm việc làm của mình, phải chịu trách nhiệm pháp lý. Như vậy, trách nhiệm pháp lý chỉ đặt ra đối với những chủ thể có lý trí và tự do ý chí.

3.2 Phân loại trách nhiệm pháp lý:

Trách nhiệm pháp lý có nhiều loại, thông thường chúng được chia thành: Trách nhiệm hình sự, trách nhiệm hành chính, trách nhiệm dân sự, trách nhiệm kỷ luật và trách nhiệm vật chất:

– Trách nhiệm hình sự là loại trách nhiệm pháp lý nghiêm khắc nhất do toà án áp dụng đối với những chủ thể có hành vi phạm tội.

– Trách nhiệm hành chính là loại trách nhiệm pháp lý do các cơ quan nhà nước hay nhà chức trách có thẩm quyền áp dụng đối với các chủ thể vi phạm hành chính.

– Trách nhiệm dân sự là loại trách nhiệm pháp lý do toà án hoặc các chủ thể khác được phép áp dụng đối với các chủ thể vi phạm pháp luật dân sự.

– Trách nhiệm kỷ luật là loại trách nhiệm pháp lý do các cơ quan, xí nghiệp, trường học… áp dụng đối với cán bộ, công chức, nhân viên, sinh viên… của cơ quan, xí nghiệp, trường học… của mình khi họ vi phạm pháp luật.

– Trách nhiệm vật chất là loại trách nhiệm pháp lý do các cơ quan, xí nghiệp… áp dụng đối với cán bộ, công chức, công nhân… của cơ quan, xí nghiệp trong trường hợp họ gây thiệt hại về tài sản cho cơ quan, xí nghiệp.

Để bảo đảm sự công bằng và tính hiệu quả trong việc truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với mỗi trường hợp vi phạm pháp luật cụ thể có thể áp dụng một hoặc đồng thời nhiều loại trách nhiệm pháp lý.

4. Hành vi pháp lý đơn phương là gì?

Hành vi pháp lý đơn phương là giao dịch dân sự, trong đó thể hiện ý chí của một bên chủ thể nhằm làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình hoặc bên còn lại trong quan hệ. Tuy nhiên, bên kia có thể tham gia hoặc không tham gia giao dịch. Điều đó còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố chủ quan hoặc khách quan.
1461039089_8sj5acdt
- Thông thường, hành vi pháp lý đơn phương được xác lập theo ý chí của một bên chủ thể duy nhất. Ví dụ: Lập di chúc, từ chối hưởng thừa kế...
- Trong nhiều trường hợp, hành vi pháp lý đơn phương chỉ phát sinh hậu quả pháp lý khi những người khác đáp ứng được điều kiện do người xác lập giao dịch đưa ra. Ví dụ: Hứa thưởng, thi có giải...
- Nội dung và hình thức của hành vi pháp lý đơn phương phải phù hợp với các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự:
+ Người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự;
+ Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội;
+ Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện.
+ Hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch trong trường hợp pháp luật có quy định

5. Điều kiện có hiệu lực của hành vi pháp lý đơn phương:

– Thông thường, hành vi pháp lý đơn phương được xác lập theo ý chí của một bên chủ thể duy nhất. Ví dụ: Lập di chúc, từ chối hưởng thừa kế…Trong nhiều trường hợp, hành vi pháp lý đơn phương chỉ phát sinh hậu quả pháp lý khi những người khác đáp ứng được điều kiện do người xác lập giao dịch đưa ra. Ví dụ: Hứa thưởng, thi có giải…

– Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập;

– Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện;

– Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.

– Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường hợp luật có quy định.

– Không thuộc trường hợp vô hiệu, trừ trường hợp Bộ luật này có quy định khác:

+ Giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của luật, trái đọa đức xã hội

+ Giao dịch dân sự do giả tạo

+ Giao dịch dân sự vô hiệu do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện

+ Giao dịch dân sự vô hiệu do bị nhầm lẫn

+ Giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép

+ Giao dịch dân sự vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình

+ Giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ về hình thức

6. Sự khác biệt giữa hành vi pháp lý đơn phương với hợp đồng:

+ Nếu hợp đồng là sự thỏa thuận ý chí giữa các bên để xác lập các quyền và nghĩa vụ pháp lý thì ở hành vi pháp lý đơn phương sự kiện pháp lý phát sinh trong trường hợp có hành vi chỉ từ một bên làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của bên đơn phương và của những chủ thể khác

+ Cả hợp đồng và hành vi pháp ý đơn phương đều là những giao dịch dân sự theo quy định pháp luật. Do đó có đầy đủ các tính chất, tuân thủ đúng quy định của giao dịch dân sự

7. Ý nghĩa của giao dịch dân sự:

Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lí đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự.

Trong giao dịch dân sự có ý chí và thể hiện ý chí của chủ thể tham gia giao dịch. Ý chí là nguyện vọng, mong muốn chủ quan bên trong của con người mà nội dung của nó được xác định bởi các nhu cầu về sản xuất, tiêu dùng của bản thân họ. Ý chí phải được thể hiện ra bên ngoài dưới một hình thức nhất định để các chủ thể khác có thể biết được ý chí của chủ thể muốn tham gia đã tham gia vào một giao dịch dân sự cụ thể. Bởi vậy, giao dịch dân sự phải là sự thống nhất giữa ý chí và bày tỏ ý chí. Thiếu sự thống nhất này, giao dịch dân sự có thể bị tuyên bố là vô hiệu hoặc sẽ vô hiệu. Điều này không chỉ đúng với cá nhân mà đúng với cả pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác. Bởi khi xác lập giao dịch dân sự các chủ thể này đều thông qua người đại diện. Người đại diện thể hiện ý chí của pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác trong phạm vi thẩm quyền đại diện.

Mục đích của giao dịch dân sự là lợi ích hợp pháp mà các bên mong muốn đạt được khi xác lập giao dịch (Điều 123 BLDS). Mục đích của giao dịch chính là hậu quả pháp lí sẽ phát sinh từ giao dịch mà các bên mong muốn đạt được khi xác lập giao dịch. Nói cách khác, mục đích ở đây luôn mang tính pháp lí (mục đích pháp lí). Mục đích pháp lí (mong muốn) đó sẽ trở thành hiện thực, nếu như các bên trong giao dịch thực hiện đúng nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật. Ví dụ: Trong hợp đồng mua bán thì mục đích pháp lí của bên mua là sẽ trở thành chủ sở hữu tài sản mua bán, bên bán sẽ nhận tiền và chuyển quyền sở hữu tài sản cho bên mua. Mục đích pháp lí đó sẽ trở thành hiện thực khi hợp đồng mua bán tuân thủ mọi quy định của pháp luật và bên bán thực hiện xong nghĩa vụ bàn giao tài sản mua bán, khi đó, hậu quả pháp lí phát sinh từ giao dịch trùng với mong muốn ban đầu của các bên (tức là với mục đích pháp lí).

Cũng có những trường hợp hậu quả pháp lí phát sinh không phù hợp với mong muốn ban đầu (với mục đích pháp lí). Điều đó có thể xảy ra do một trong hai nguyên nhân chính. Nguyên nhân thứ nhất là khi giao dịch đó là bất hợp pháp. Ví dụ: Khi người mua đã mua phải đồ trộm cắp thì không được xác lập quyền sở hữu mà có nghĩa vụ phải hoàn trả lại cho chủ sở hữu tài sản đó (người bán không phải là chủ sở hữu tài sản thì không thể chuyển giao quyền sở hữu tài sản đó cho người mua). Nguyên nhân thứ hai là do chính các bên không tuân thủ nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch có hiệu lực. Ví dụ: Sau khi xác lập giao dịch, bên bán không thực hiện nghĩa vụ bàn giao vật cho nên họ phải chịu trách nhiệm dân sự.

Mục đích pháp lí của giao dịch khác với động cơ xác lập giao dịch. Động cơ xác lập giao dịch dân sự là nguyên nhân thúc đẩy các bên tham gia giao dịch. Động cơ của giao dịch không mang tính pháp lí. Khi xác lập giao dịch, nếu như động cơ không đạt được thì điều đó cũng không làm ảnh hưởng đến hiệu lực của giao dịch. Mục đích luôn luôn được xác định còn động cơ có thể được xác định hoặc không. Ví dụ: Mua bán nhà ở – mục đích của người mua là quyền sở hữu nhà, còn động cơ có thể để ở, có thể để cho thuê, có thể bán lại… Tuy nhiên, động cơ của giao dịch có thể được các bên thoả thuận và mang ý nghĩa pháp lí. Trong trường hợp này động cơ đã trở thành điều khoản của giao dịch, là một bộ phận cấu thành của giao dịch đó (như cho vay tiền để sản xuất – mục đích của người vay là quyền sở hữu số tiền nhưng họ chỉ được dựng tiền đó để sản xuất mà không được sử dụng vào hoạt động khác).

Giao dịch dân sự là căn cứ phổ biến, thông dụng nhất trong các căn cứ làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự; là phương tiện pháp lí quan trọng nhất trong giao lưu dân sự, trong việc dịch chuyển tài sản và cung ứng dịch vụ nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của tất cả các thành viên trong xã hội. Trong nền sản xuất hàng hóa theo cơ chế thị trường, thông qua giao dịch dân sự (hợp đồng) các chủ thể đáp ứng nhu cầu sản xuất, kinh doanh và các nhu cầu khác trong đời sống hàng ngày của mình.

8. Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự:

Bên cạnh nguyên tắc tôn trọng quyền tự do thoả thuận của các bên trong giao dịch thì pháp luật cũng đặt ra một số những yêu cầu tối thiểu buộc các chủ thể phải tuân thủ theo – đó là các điều kiện có hiệu lực của giao dịch. Chỉ những giao dịch hợp pháp mới làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của chủ thể tham gia giao dịch. Mọi cam kết, thoả thuận hợp pháp có hiệu lực bắt buộc đối với các bên và được pháp luật bảo hộ. Các điều kiện có hiệu lực của giao dịch được quy định tại Điều 122 BLDS. Đó là:

– Người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự;

– Mục đích và nội dung của giao dịch không trái pháp luật và đạo đức xã hội;

– Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện;

– Hình thức giao dịch phù hợp với quy định của pháp luật.

Người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự

Thuật ngữ “người” ở đây phải hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm các chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự: Cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác.

– Cá nhân

Bản chất của giao dịch dân sự là sự thống nhất giữa ý chí và bày tỏ ý chí của chủ thể tham gia giao dịch. Chỉ những người có năng lực hành vi mới có ý chí riêng và nhận thức được hành vi của họ để có thể tự mình xác lập, thực hiện các quyền, nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch đồng thời phải tự chịu trách nhiệm trong giao dịch. Cho nên, giao dịch dân sự do cá nhân xác lập chỉ có hiệu lực nếu phù hợp với mức độ năng lực hành vi dân sự của cá nhân (từ Điều 17 đến Điều 23 BLDS ).

+ Người từ đủ 18 tuổi trở lên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ trường hợp họ bị toà án tuyên bố mất năng lực hành vi, tuyên bố hạn chế năng lực hành vi. Người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ được toàn quyền xác lập mọi giao dịch dân sự.

+ Người từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi có năng lực hành vi dân sự chưa đầy đủ khi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật trừ những giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi.

+ Người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi được xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự trong phạm vi tài sản riêng mà họ có, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác (lập di chúc phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý…).

+ Những người chưa đủ 6 tuổi, người mất năng lực hành vi không được phép xác lập giao dịch. Mọi giao dịch dân sự của những người này đều do người đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện.

– Pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác

Các chủ thể này tham gia vào giao dịch dân sự thông qua người đại diện của họ (đại diện theo pháp luật, theo uỷ quyền). Người đại diện xác lập, thực hiện giao dịch dân sự nhân danh người được đại diện. Các quyền, nghĩa vụ do người đại diện xác lập làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác. Tuy nhiên, pháp nhân chỉ tham gia các giao dịch dân sự phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của pháp nhân. Hộ gia đình chỉ được tham gia các giao dịch dân sự liên quan đến quyền sử dụng đất, đến hoạt động sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp và trong một số lĩnh vực sản xuất kinh doanh khác theo quy định của pháp luật (Điều 106 BLDS). Tổ hợp tác chỉ được tham gia các giao dịch dân sự liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của tổ được xác định trong hợp đồng hợp tác (Điều 111 BLDS). Người đại diện xác lập giao dịch dân sự làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác trong phạm vi nhiệm vụ của chủ thể đó được điều lệ hoặc pháp luật quy định.

Mục đích và nội dung của giao dịch không trái pháp luật, đạo đức xã hội

Mục đích của giao dịch dân sự là lợi ích hợp pháp mà các bên mong muốn đạt được khi xác lập giao dịch đó (mục đích thực tế). Nội dung của giao dịch dân sự là tổng hợp các điều khoản mà các bên đã cam kết, thoả thuận trong giao dịch. Những điều khoản này xác định quyền, nghĩa vụ của các bên phát sinh từ giao dịch. Mục đích và nội dung của giao dịch có quan hệ chặt chẽ với nhau. Con người xác lập, thực hiện giao dịch dân sự luôn nhằm đạt được mục đích nhất định. Muốn đạt được mục đích đó họ phải cam kết, thoả thuận về nội dung và ngược lại những cam kết, thoả thuận về nội dung của họ là để đạt được mục đích của giao dịch. Ví dụ: Trong hợp đồng mua bán tài sản, mục đích mà các bên hướng tới là quyền sở hữu tài sản. Để đạt được mục đích này họ phải thoả thuận được về nội dung của hợp đồng mua bán bao gồm các điều khoản như đối tượng (vật bán), giá cả, thời hạn, địa điểm, phương thức thực hiện hợp đồng. Sự thoả thuận về các điều khoản đó lại nhằm đạt được mục đích là quyền sở hữu tài sản. Đây là mục đích của giao dịch mà các bên hướng tới. Tuy nhiên trong thực tiễn không phải bao giờ các chủ thể cũng có cùng mục đích. Có những trường hợp người mua muốn được sở hữu tài sản nhưng người bán không có mục đích đó mà vì một mục đích khác, đó là họ bán tài sản để trốn tránh việc kê biên tài sản, người bị kê biên tài sản bán hết tài sản của mình, trường hợp này người bán không phải muốn chuyển quyền sở hữu cho bên mua. Mục đích này là trái pháp luật.

Để giao dịch dân sự có hiệu lực pháp luật thì mục đích và nội dung của giao dịch không trái pháp luật, đạo đức xã hội. Điều cấm của pháp luật là những quy định của pháp luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định. Đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung giữa người với người trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng. Chỉ những tài sản được phép giao dịch, những công việc được phép thực hiện không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội mới là đối tượng của giao dịch dân sự. Những giao dịch xác lập nhằm trốn tránh pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội là những giao dịch có mục đích và nội dung không hợp pháp, không làm phát sinh hiệu lực pháp luật của giao dịch đó.

Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện

Bản chất của giao dịch dân sự là sự thống nhất giữa ý chí và bày tỏ ý chí, cho nên “tự nguyện” bao gồm các yếu tố cấu thành là tự do ý chí và bày tỏ ý chí. Không có tự do ý chí và bày tỏ ý chí không thể có tự nguyện, nếu một trong hai yếu tố này không có hoặc không thống nhất cũng không thể có tự nguyện. Sự tự nguyện của một bên (hành vi pháp lí đơn phương) hoặc sự tự nguyện của các bên trong một quan hệ dân sự (hợp đồng) là một trong các nguyên tắc được quy định tại Điều 4 BLDS: Tự do, tự nguyện cam kết, thoả thuận. Vi phạm sự tự nguyện của chủ thể là vi phạm pháp luật. Vì vậy, giao dịch thiếu sự tự nguyện không làm phát sinh hậu quả pháp lí. Bộ luật dân sự quy định một số trường hợp giao dịch xác lập không có sự tự nguyện sẽ bị vô hiệu. Đó là các trường hợp vô hiệu do giả tạo, do nhầm lẫn, do bị lừa dối, bị đe doạ, do xác lập tại thời điểm mà không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình.

Hình thức của giao dịch phải phù hợp với quy định của pháp luật

Hình thức của giao dịch dân sự là phương tiện thể hiện nội dung của giao dịch. Thông qua phương tiện này bên đối tác cũng như người thứ ba có thể biết được nội dung của giao dịch đã xác lập. Hình thức của giao dịch có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong tố tụng dân sự. Nó là chứng cứ xác nhận các quan hệ đã, đang tồn tại giữa các bên, qua đó xác định trách nhiệm dân sự khi có hành vi vi phạm xảy ra.

Giao dịch dân sự có thể được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể. Người xác lập giao dịch có quyền lựa chọn hình thức của giao dịch đó. Chỉ trong một số trường hợp đặc biệt thì pháp luật mới có yêu cầu về hình thức buộc các chủ thể phải tuân thủ theo (yêu cầu phải lập thành văn bản, phải có chứng nhận, chứng thực, đăng kí, xin phép). Trong trường hợp pháp luật có quy định giao dịch dân sự phải được thể hiện bằng văn bản, phải được công chứng nhà nước chứng nhận, được chứng thực, đăng kí hoặc phải xin phép thì phải tuân theo các quy định đó (Điều 124 BLDS).

Nội dung bài viết:

    Hãy để lại thông tin để được tư vấn

    comment-blank-solid Bình luận

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo