Cha, mẹ có phải người giám hộ đương nhiên cho con không?

Cha, mẹ có phải người giám hộ đương nhiên cho con không? Đây là câu hỏi thường gặp khi nói đến quyền và trách nhiệm của cha mẹ đối với con cái trong pháp luật. Giám hộ là một khái niệm quan trọng, đặc biệt trong các trường hợp pháp lý liên quan đến quyền lợi và sự bảo vệ của trẻ em. Để hiểu rõ hơn về vấn đề này, chúng ta cần tìm hiểu xem pháp luật quy định như thế nào về quyền giám hộ của cha mẹ, cũng như những trường hợp cụ thể mà quyền giám hộ này có thể được áp dụng hoặc thay đổi.

Cha, mẹ có phải người giám hộ đương nhiên cho con không?

Cha, mẹ có phải người giám hộ đương nhiên cho con không?

1. Giám hộ là gì?

Người chưa thành niên không còn cha, mẹ; cha, mẹ mất năng lực hành vi hay bị hạn chế năng lực hành vi, bị hạn chế quyền của cha, mẹ; cha, mẹ không có điều kiện chăm sóc.

Ngoài ra, chế định giám hộ điều chỉnh các quan hệ với mục đích nhằm khắc phục tình trạng không tương đồng giữa sự bình đẳng về năng lực pháp luật với không bình đẳng về năng lực hành vi dân sự của những người có năng lực hành vi một phần, những người không có năng lực hành vi, bị mất năng lực hành vi.Những quy định của chế định này xác định việc quản lí tài sản, thực hiện các quyền và nghĩa vụ về tài sản của người được giám hộ. Ngoài ra, chế định giám hộ còn có những quy định mang tính hành chính như các quan hệ về cử người giám hộ, giám sát việc giám hộ…

Giám hộ là việc cá nhân, tổ chức hoặc cơ quan nhà nước được pháp luật quy định hoặc được cử để thực hiện việc chăm sóc và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người được giám hộ ( Khoản 1 Điều 58 Bộ luật dân sự 2015).

Như vậy, giám hộ là chế định nhằm khắc phục tình trạng của người có năng lực pháp luật dân sự nhưng không thể bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện được quyền, nghĩa vụ của họ vì họ là những người chưa thành niên mà không có sự chăm sóc, giáo dục của cha mẹ, người có khó khăn trong nhận thức và điều khiển hành vi, người mất năng lực hành vi dân sự.

2. Người được giám hộ là ai?

Theo quy định tại Khoản 2 Điều 58 BLDS thì người được giám hộ bao gồm:

– Người chưa thành niên không còn cha, mẹ, không xác định được cha, mẹ hoặc cha, mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, bị Toà án hạn chế quyền của cha, mẹ hoặc cha, mẹ không có điều kiện chăm sóc, giáo dục người chưa thành niên đó và nếu cha, mẹ có yêu cầu;

– Người mất năng lực hành vi dân sự.

Theo quy định này thì những người giám hộ có thể phân chia thành các nhóm sau:

– Những người bắt buộc phải có người giám hộ bao gồm: người mất năng lực hành vi dân sự; người dưới 15 tuổi không còn cha, mẹ, không xác định được cha, mẹ hoặc cha, mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, bị tòa án hạn chế quyền của cha, mẹ.

– Người được giám hộ theo yêu cầu của cha, mẹ khi cha mẹ không có điều kiện chăm sóc, giáo dục người chưa thành niên.

– Những người từ 15 đến dưới 18 tuổi không bắt buộc phải có người giám hộ nếu họ phát triển bình thường về thể chất.

3. Giám hộ đương nhiên là gì?

Dựa theo quy định tại Điều 46 của Bộ luật Dân sự năm 2015 thì khái niệm giám hộ là: “Giám hộ là việc cá nhân, pháp nhân được luật quy định, được Ủy ban nhân dân cấp xã cử, được Tòa án chỉ định hoặc được quy định tại khoản 2 Điều 48 của Bộ luật này (sau đây gọi chung là người giám hộ) để thực hiện việc chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi (sau đây gọi chung là người được giám hộ)”.

Từ khái niệm được quy định ở trên thì có thể hiểu được chức năng của người giám hộ sẽ thực hiện chăm sóc, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp; chịu trách nhiệm trước pháp luật của người được giám hộ là những người như sau: chưa thành niên, mất năng lực hành vi dân sự, hạn chế năng lực hành vi dân sự, người đang gặp khó khăn trong nhận thức, khó khăn làm chủ hành vi.

4. Cha, mẹ có phải là người giám hộ đương nhiên của con không?

(1) Căn cứ Điều 136 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về đại diện theo pháp luật của cá nhân như sau:

- Cha, mẹ đối với con chưa thành niên.

- Người giám hộ đối với người được giám hộ. Người giám hộ của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi là người đại diện theo pháp luật nếu được Tòa án chỉ định.

- Người do Tòa án chỉ định trong trường hợp không xác định được người đại diện quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này.

- Người do Tòa án chỉ định đối với người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.

(2) Căn cứ Điều 46 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về giám hộ như sau:

- Giám hộ là việc cá nhân, pháp nhân được luật quy định, được Ủy ban nhân dân cấp xã cử, được Tòa án chỉ định hoặc được quy định tại khoản 2 Điều 48 của Bộ luật này (sau đây gọi chung là người giám hộ) để thực hiện việc chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi (sau đây gọi chung là người được giám hộ).

- Trường hợp giám hộ cho người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thì phải được sự đồng ý của người đó nếu họ có năng lực thể hiện ý chí của mình tại thời điểm yêu cầu.

- Việc giám hộ phải được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về hộ tịch.

Người giám hộ đương nhiên mà không đăng ký việc giám hộ thì vẫn phải thực hiện nghĩa vụ của người giám hộ.

(3) Căn cứ Điều 47 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về người được giám hộ như sau:

- Người được giám hộ bao gồm:

+ Người chưa thành niên không còn cha, mẹ hoặc không xác định được cha, mẹ;

+ Người chưa thành niên có cha, mẹ nhưng cha, mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự; cha, mẹ đều có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi; cha, mẹ đều bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; cha, mẹ đều bị Tòa án tuyên bố hạn chế quyền đối với con; cha, mẹ đều không có điều kiện chăm sóc, giáo dục con và có yêu cầu người giám hộ;

+ Người mất năng lực hành vi dân sự;

+ Người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.

- Một người chỉ có thể được một người giám hộ, trừ trường hợp cha, mẹ cùng giám hộ cho con hoặc ông, bà cùng giám hộ cho cháu.

Như vậy, trường hợp cha mẹ còn sống sẽ là người đại diện của con chưa thành niên chứ không phải người giám hộ. Chỉ khi người chưa thành niên không còn cha mẹ; cha và mẹ mất năng lực hành vi dân sự; cha và mẹ có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi; cha, mẹ đều bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; cha, mẹ đều bị Tòa án tuyên bố hạn chế quyền đối với con; cha, mẹ đều không có điều kiện chăm sóc, giáo dục con; hoặc không xác định được cha mẹ mới đặt ra vấn đề người giám hộ.

5. Các câu hỏi thường gặp về người giám hộ đương nhiên

5.1 Cha mẹ có phải là người giám hộ đương nhiên?

Theo quy định của Điều 52 Bộ luật dân sự 2015 về giám hộ thì việc giám hộ là cử người để thực hiện việc chăm sóc và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người được giám hộ là người chưa thành niên, mất năng lực hành vi dân sự.. Theo đó, ở người chưa thành niên thì cha mẹ được coi là người giám hộ đương nhiên và là người đại diện đương nhiên.

5.2 Nghĩa vụ của người giám hộ đối với người được giám hộ chưa đủ mười lăm tuổi là gì?

Nghĩa vụ của người giám hộ đối với người được giám hộ chưa đủ mười lăm tuổi là:

  1. Chăm sóc, giáo dục người được giám hộ.
  2. Đại diện cho người được giám hộ trong các giao dịch dân sự, trừ trường hợp pháp luật quy định người chưa đủ mười lăm tuổi có thể tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự.
  3. Quản lý tài sản của người được giám hộ.
  4. Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người được giám hộ.

5.3 Trường hợp cha và mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự thì ai là người giám hộ đương nhiên?

Trường hợp cha và mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự hoặc một người mất năng lực hành vi dân sự, còn người kia không có đủ điều kiện làm người giám hộ thì người con cả là người giám hộ; nếu người con cả không có đủ điều kiện làm người giám hộ thì người con tiếp theo có đủ điều kiện làm người giám hộ là người giám hộ.

Nội dung bài viết:

    Hãy để lại thông tin để được tư vấn

    comment-blank-solid Bình luận

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo