Cách đặt câu hỏi của thẩm vấn nhân dân

(LSVN)-Xét hỏi tại phiên tòa nói chung và phiên tòa hình sự sơ thẩm nói riêng mà nhiều người quen gọi là “thẩm vấn” là một phần của hoạt động xét xử tại phiên tòa, trong đó hội đồng xét xử, kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng tiến hành việc kiểm tra các chứng cứ, kết luận điều tra, bản cáo trạng một cách công khai về những tình tiết của vụ án.

Cach-dat-cau-hoi-cua-hoi-tham-nhan-dan
Cách đặt câu hỏi của thẩm vấn nhân dân

Trong giai đoạn xét hỏi tại phiên tòa, hội đồng xét xử sơ thẩm phải trực tiếp nghiên cứu các chứng cứ của vụ án như: hỏi bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người làm chứng; nghe kết luận của người giám định; xem xét xác vật chứng; đọc biên bản, công bố lời khai, công bố các tài liệu; xem xét tại chỗ...
Chủ tọa phiên tòa vừa là người trực tiếp xét hỏi, vừa là người điều khiển việc xét hỏi; áp dụng các biện pháp được Bộ luật Tố tụng hình sự quy định để làm rõ các tình tiết của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, nhằm xác định sự thật của vụ án, đồng thời loại bỏ những tình tiết không liên quan đến vụ án. Theo quy định của pháp luật thì hội đồng xét xử chỉ được căn cứ vào những chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa để ra bản án.

Nếu xét hỏi là giai đoạn trung tâm của hoạt động xét xử, thì xét hỏi bị cáo là quan trọng nhất để xác định sự thật vụ án, có thể những câu hỏi và những câu trả lời tại phiên tòa không khác với những câu hỏi và câu trả lời ở giai đoạn điều tra, nhưng nó có một ý nghĩa vô cùng quan trọng ở chỗ: việc hỏi và trả lời được diễn ra công khai, nó là hình thức kiểm nghiệm kết quả điều tra của cơ quan điều tra. Ngoài các cuộc thẩm vấn, bồi thẩm đoàn còn xem xét các tang vật, khám nghiệm hiện trường vụ án và các địa điểm khác, công bố tài liệu, v.v. Tuy nhiên, hoạt động xét hỏi nói chung và xét hỏi bị cáo nói riêng, đó là hoạt động thể hiện tính công khai, minh bạch của tòa án trong hoạt động xét xử.

Theo quy định tại Điều 306 Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) 2015, trước khi xét hỏi, Kiểm sát viên đọc bản cáo trạng và trình bày ý kiến ​​bổ sung (nếu có). Nhận xét bổ sung không nên làm trầm trọng thêm tình trạng của người trả lời.
Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định kiểm sát viên giữ quyền công tố đọc cáo trạng tại mục V chương XXI (thủ tục xét xử) là phù hợp hơn so với quy định của bộ luật tố tụng hình sự 2003, vì nếu họ muốn bào chữa tại phiên tòa thì trước hết Kiểm sát viên phải đọc cáo trạng xem bị cáo phạm tội gì và điều, khoản nào của Bộ luật hình sự. Căn cứ vào cáo trạng do kiểm sát viên ban hành, bị can và những người tham gia tố tụng có thể tiến hành tranh luận với kiểm sát viên hoặc trao đổi với nhau về các tình tiết của vụ án.

Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định “Kiểm sát viên có thể bổ sung cáo trạng nhưng ý kiến ​​bổ sung không được làm nặng thêm tình trạng của bị can” là quy định tiến bộ, không phải là luật tố tụng nhà nước. Nước nào cũng có luật lệ như nhau.
Yêu cầu đọc bản cáo trạng đối với Kiểm sát viên là đọc toàn văn bản cáo trạng đã tống đạt cho bị can. Trường hợp sau khi đã tống đạt cáo trạng cho bị can mà còn có quyết định khác chưa tống đạt cho bị can thì sau khi đọc cáo trạng buộc tội, Kiểm sát viên phải trình bày ý kiến ​​bổ sung, hoàn thiện và chỉ bổ sung các tình tiết. mà không làm trầm trọng thêm tình hình. tình trạng của bị cáo. Trong thực tiễn xét xử nhiều vụ án, bản cáo trạng mà bị cáo nhận được và bản cáo trạng mà Kiểm sát viên đọc tại phiên tòa có nội dung khác nhau, thậm chí rất cơ bản. Ví dụ: Khi tống đạt bản cáo trạng đối với bị cáo, Viện kiểm sát đã truy tố bị cáo về tội “cố ý gây thương tích” quy định tại Điều 134 BLHS nhưng bản cáo trạng do Kiểm sát viên đọc tại phiên tòa có mâu thuẫn với bị cáo về tội tội “giết người” theo điều 123 Bộ luật Hình sự. Phát hiện sau khi tống đạt cáo trạng cho bị cáo và chuyển hồ sơ vụ án cho tòa án chuẩn bị xét xử, trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, thẩm phán chủ tọa phiên tòa quyết định đưa vụ án ra xét xử lại. quan điểm tòa sửa cáo trạng nhưng lại “quên” không bảo lưu cáo trạng đã sửa đối với bị cáo. Trong trường hợp này, bản cáo trạng được coi là chưa tống đạt cho bị cáo và nếu bị cáo có yêu cầu thì Hội đồng xét xử phải hoãn phiên tòa.

Cách đặt câu hỏi của hội thẩm nhân dân
Cách đặt câu hỏi của thẩm vấn nhân dân

Vì vậy, sau khi Kiểm sát viên đọc bản cáo trạng, Chủ tọa phiên tòa cần hỏi bị cáo: “Bản cáo trạng mà Kiểm sát viên đọc tại phiên tòa có tương ứng với hành vi buộc tội mà bị cáo đã tống đạt hay không?”. Nếu bản cáo trạng do kiểm sát viên đọc tại phiên tòa khác với bản cáo trạng mà bị cáo nhận được và sự khác biệt đó về cơ bản liên quan đến quyền bào chữa của bị cáo, nhưng bị cáo không đưa ra được bằng chứng để bác bỏ tội danh của cơ quan công tố trong bản cáo trạng mới và có yêu cầu của bị cáo. bị cáo thì phải hoãn phiên tòa. Trong trường hợp này, Chủ tọa phiên tòa có thể hỏi bị cáo xem có cần thời gian để nghiên cứu, chuẩn bị cho việc bào chữa hay không hoặc nhờ luật sư bào chữa, nếu bị cáo đồng ý tiếp tục xét xử thì có thể không phải hoãn phiên tòa. thử nghiệm. Tuy nhiên, cũng có ý kiến ​​cho rằng Điều 306 Bộ luật tố tụng hình sự quy định kiểm sát viên có quyền trình bày ý kiến ​​bổ sung sau khi đọc bản cáo trạng, kể cả trường hợp những ý kiến ​​này không làm nặng thêm tình tiết của bị cáo. trước khi bắt đầu phiên tòa phải trả lại cho bị cáo và nếu Viện kiểm sát không trả lại cho bị cáo thì phải hoãn phiên tòa.
Sau khi kiểm sát viên đọc xong cáo trạng, phần thẩm vấn bắt đầu.

Theo quy định tại Điều 307 Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng điều tra phải xác định đầy đủ các tình tiết của từng tình tiết, từng tội danh trong vụ án, từng người. Chủ tọa phiên tòa điều hành việc hỏi, quyết định hỏi ai trước, hỏi sau theo trình tự hợp lý. Quy định này được hiểu là sau khi chủ tọa phiên tòa đặt câu hỏi thì việc quyết định hỏi ai trước, hỏi ai sau đó là của chủ tọa phiên tòa chứ không phải của chủ tọa phiên tòa, người chỉ điều khiển việc xét hỏi mà không tham gia xét hỏi. Thực tế đã có trường hợp bản án của tòa án bị kháng nghị giám đốc thẩm, chỉ vì chủ tọa phiên tòa không tham gia xét hỏi mà chỉ ra lệnh cho những người khác xét hỏi rồi kết thúc việc xét hỏi tại phiên tòa. Việc chủ tọa phiên tòa từ chối tham gia xét hỏi được coi là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.

Để đảm bảo việc xét hỏi tại phiên tòa diễn ra thành công, nhất là trong trường hợp có nhiều bị cáo phạm tội khác nhau, kinh nghiệm xét xử cho thấy, chủ tọa phiên tòa thường lập kế hoạch xét hỏi. Căn cứ vào mẫu được xem xét để xác định hành vi phạm tội của từng bị can, của từng tội danh mà bị can bị khởi tố. Vì vậy, nhiều ý kiến ​​cho rằng Bộ luật tố tụng hình sự cần quy định việc hỏi tại phiên tòa theo trình tự hợp lý để xác định tính xác thực của vụ án với những tình tiết mà cơ quan điều tra, kiểm sát đã thu thập được trong giai đoạn điều tra, truy tố như lâu nay. vì các tình tiết của mọi tình tiết, mọi tội danh trong vụ án và của mọi bị cáo đều được xác định đầy đủ.

Theo quy định tại khoản 2 Điều 307 Bộ luật tố tụng hình sự thì khi xét hỏi từng người, chủ toạ phiên toà hỏi trước, sau đó quyết định để Thẩm phán, Hội thẩm, Kiểm sát viên, luật sư bào chữa và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thực hiện việc hỏi cung. Quy định này được hiểu rằng, chỉ chủ tọa phiên tòa mới được yêu cầu trước, còn những người khác do chủ tọa phiên tòa quyết định theo trình tự hợp lý chứ không phải sau khi chủ tọa phiên tòa yêu cầu, Thẩm phán, Hội thẩm, Kiểm sát viên, người bào chữa. luật sư, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Ví dụ: Sau khi chủ tọa phiên tòa hỏi bị cáo, chủ tọa phiên tòa có thể yêu cầu người bào chữa hỏi bị cáo, sau đó là Hội thẩm và những người khác. Đây là một quy định mang tính hướng dẫn, chủ yếu vì việc xét hỏi thực chất tốt hay xấu phụ thuộc vào khả năng của chủ tọa phiên tòa và các thành viên trong hội đồng xét xử. Hỏi ai trước, hỏi gì trước hoàn toàn do chủ tọa phiên tòa quyết định căn cứ vào kết quả điều tra cũng như thái độ khai báo của từng bị cáo. Có người hỏi bị cáo trước, có người hỏi nạn nhân trước, có người hỏi nhân chứng trước. Dù hỏi trước hay hỏi sau thì tại phiên tòa chỉ hỏi những người sau đây: Chủ tọa phiên tòa, Hội thẩm, Kiểm sát viên giữ quyền công tố, Luật sư bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự và Kiểm sát viên. . thẩm định viên, thẩm định viên bất động sản. Tuy nhiên, chuyên gia chỉ được hỏi những vấn đề liên quan đến chuyên môn, chuyên gia bất động sản chỉ được hỏi những vấn đề liên quan đến định giá tài sản.

Đối với những người tham gia phiên tòa khác, trừ bị cáo, thì họ chỉ có thể yêu cầu chủ tọa phiên tòa đặt câu hỏi thêm, tức là người hỏi luôn luôn là chủ tọa phiên tòa. Ví dụ: Người bị hại yêu cầu Chủ tọa phiên tòa cho biết bị cáo đã bán tài sản cướp được cho ai và ở đâu. Nếu Chủ tọa phiên tòa chấp nhận yêu cầu của người bị hại thì Chủ tọa phiên tòa hỏi bị cáo về nội dung yêu cầu của người bị hại, nhưng người bị hại không hỏi trực tiếp bị cáo. Tuy nhiên, được sự đồng ý của chủ tọa phiên tòa, bị cáo được phép hỏi các bị cáo khác về những vấn đề mà mình quan tâm. Đây là điểm mới mà trước đây BLHS [1] chưa quy định nhằm bảo đảm tính chất tranh tụng của phiên tòa do thực tiễn xét xử đặt ra. Phải khẳng định rằng quy định cho phép bị cáo được hỏi các bị cáo khác về những vấn đề liên quan đến họ là quy định tiến bộ, phù hợp với thực tiễn xét xử và tinh thần của đường lối xét xử theo Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị. Nhưng như vậy vẫn chưa đủ mà BLTTDS phải quy định tất cả những người tham gia tố tụng đều có quyền đặt câu hỏi đối với những người tham gia tố tụng khác thì mới thực sự thể hiện được tinh thần tranh tụng trong quá trình xét xử. Thực tiễn xét xử cũng cho thấy, nhiều vụ án quy định cho những người tham gia tố tụng được hỏi lẫn nhau, chẳng hạn cho bị cáo được hỏi bị cáo khác mà không ảnh hưởng đến việc xác định tính xác thực của vụ án, như: bị cáo có quyền hỏi người bị hại hoặc người đại diện của người bị hại; bị cáo hỏi người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc người làm chứng, thậm chí cả Điều tra viên và ngược lại... Theo tinh thần cải cách tư pháp, để thể hiện đúng tinh thần cạnh tranh trong phiên tòa, HĐXX cần quy định chi tiết hơn cho phép bị cáo và người tham gia tố tụng được hỏi lẫn nhau.

Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, khi xét hỏi bị cáo, Hội đồng xét xử phải xét hỏi riêng từng bị cáo. Nếu lời khai của bị cáo này có thể ảnh hưởng đến lời khai của bị cáo khác thì chủ tọa phiên tòa phải cách ly họ. Bị cáo bị cách ly khi trở lại phòng xử án trước tiên được thông báo về lời khai của bị cáo và có quyền chất vấn anh ta (khoản 1, điều 309 của ĐCSTQ).
Trước khi hỏi bị cáo, chủ tọa phiên tòa phải để bị cáo trình bày ý kiến của họ về bản cáo trạng và những tình tiết của vụ án, sau đó hội đồng xét xử mới hỏi thêm về những điểm mà bị cáo trình bày chưa đầy đủ hoặc còn mâu thuẫn. Quy định là như vậy, nhưng thực tiễn xét xử rất ít khi chủ tọa phiên tòa để bị cáo trình bày ý kiến về bản cáo trạng và những tình tiết của vụ án, vì sợ rằng làm như vậy sẽ mất thời gian, có bị cáo cầm bản cáo trạng trong tay đọc từng đoạn rồi có ý kiến về những tình tiết mà bản cáo trạng nêu, có khi mất cả giờ đồng hồ, nếu cứ để bị cáo trình bày theo ý của họ thì có khi cả buổi cũng không xong. Do đó, hội đồng xét xử thường đặt câu hỏi ngay đối với bị cáo khi bắt đầu việc xét hỏi, nếu có bị cáo nào muốn trình bày quan điểm của mình về bản cáo trạng thì thường được chủ tọa phiên tòa giải thích rằng: “Bị cáo trả lời thẳng vào câu hỏi của tòa, còn những vấn đề cần trình bày sẽ được trình bày trong phần tranh luận”.

Để bảo đảm đúng quy định của pháp luật và không ảnh hưởng đến thời gian xét xử, chủ tọa phiên tòa chỉ để bị cáo trình bày về những vấn đề cơ bản như: tội danh, điều luật mà viện kiểm sát truy tố hoặc bị cáo đồng ý hay không đồng ý với kết luận của bản cáo trạng, còn các tình tiết cụ thể của bản cáo trạng bị cáo có thể trình bày khi trả lời những câu hỏi của hội đồng xét xử, kiểm sát viên, người bào chữa hoặc người bảo vệ quyền lợi của đương sự. Theo quy định tại khoản 2 Điều 309 BLTTHS thì kiểm sát viên hỏi về những chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội bị cáo và những tình tiết khác của vụ án. Nếu chỉ cho kiểm sát viên hỏi về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến việc khởi tố, tha bị can và các tình tiết khác của vụ án là chưa thể hiện đúng tinh thần cải cách tư pháp. Bộ luật tố tụng hình sự nên quy định kiểm sát viên hỏi bị cáo về những cáo buộc thể hiện trong cáo trạng, vì trong quá trình xét xử kiểm sát viên có nhiệm vụ bảo vệ cáo trạng, do đó kiểm sát viên phải hỏi kỹ bị cáo về các tình tiết của vụ án. . Chủ tọa phiên tòa chỉ xét hỏi bị cáo về những nội dung cơ bản mà bị cáo trình bày chưa đầy đủ, chưa rõ ràng.

Luật sư bào chữa đặt câu hỏi cho bị cáo về những tình tiết của vụ án có liên quan đến việc bào chữa cho bị cáo mà mình đang bào chữa. Việc người bào chữa hỏi bị cáo là để xóa tội cho bị cáo, không nên xét hỏi các tình tiết buộc tội bị cáo vì điều này không những vi phạm pháp luật, quy định của Liên đoàn Luật sư Việt Nam mà còn dẫn đến hiềm khích. . Tuy nhiên, người bảo vệ quyền lợi của người bị hại phải hỏi bị cáo về các tình tiết buộc tội hoặc các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo. Ví dụ: Trong vụ án dâm ô người dưới 16 tuổi, người bào chữa có thể hỏi bị cáo về nhận thức của bị cáo đối với các hành vi hôn vào cơ thể bị hại, còn người bảo vệ quyền lợi của bị hại có thể hỏi bị cáo những câu hỏi có tính chất buộc tội bị cáo như: “Bị cáo có nhận thức được người mà mình ôm hôn là người dưới 16 tuổi không?” hoặc “Khi hôn bị hại, bị hại có phản ứng gì không?”…
Nếu vụ án có người bào chữa cho bị cáo và người bảo vệ quyền lợi của bị hại thì chủ tọa phiên tòa nên dành nhiều thời gian để người bào chữa và người bảo vệ quyền lợi của bị hại hỏi bị cáo về các tình tiết buộc tội và gỡ tội. Chủ tọa phiên tòa chỉ điều khiển việc xét hỏi của người bào chữa và người bảo vệ quyền lợi của bị hại để phiên tòa thể hiện rõ tính chất tranh tụng giữa bên buộc tội và bên gỡ tội. Nếu vụ án có nhiều bị cáo đều bị truy tố về một tội, thì chủ tọa phiên tòa cần hỏi các tình tiết về hành vi phạm tội của từng bị cáo, đồng thời xét hỏi để xác định vụ án có đồng phạm không? Nếu có đồng phạm thì có thuộc trường hợp phạm tội có tổ chức không? Nếu vụ án có đồng phạm và phạm tội có tổ chức thì cần hỏi về vai trò của từng bị cáo, nhất là đối với người tổ chức, người thực hành; đối với người giúp sức thì cần hỏi các tình tiết liên quan đến hành vi giúp sức có đáng kể không để làm căn cứ quyết định hình phạt và áp dụng Điều 54 Bộ luật Hình sự; trong số những người giúp sức, có người nào không phải là đồng phạm, mà chỉ là hành vi che giấu hoặc không tố giác tội phạm. Ví dụ: Trong vụ án trộm cắp tài sản có tổ chức, người bị khởi tố là đồng phạm do có sự hứa hẹn trước về hành vi với người tổ chức hoặc người thực hành. Nếu vụ án có nhiều bị cáo bị xét xử về các tội khác nhau thì chủ tọa phiên tòa phải tiến hành xét hỏi riêng từng bị cáo như đối với vụ án có một bị cáo.

Cách đặt câu hỏi của hội  thẩm nhân dân
Cách đặt câu hỏi của thẩm vấn nhân dân

Trong thực tiễn xét xử trọng tài, nhìn chung đối với một vụ án có nhiều bị cáo cùng bị truy tố về một tội phạm hoặc nhiều tội danh khác nhau thì Thẩm phán chủ tọa phiên tòa tiến hành xét hỏi tất cả các bị cáo, thuộc tất cả các tội bị truy tố thì mới xét xử. để người bào chữa hỏi cung bị cáo, còn người bị hại chỉ được hỏi sau cùng. Phương pháp hỏi này tuy tiết kiệm thời gian nhưng không đảm bảo tính hệ thống, liên tục. Nhiều trường hợp người bị hại hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án muốn đối đáp với bị can hoặc đặt câu hỏi với người khác thì chủ tọa cũng khó có thể chấp nhận việc này, vì lý do thời gian. Trong trường hợp bị can tham gia tố tụng với nhiều tư cách khác nhau như: đồng thời là bị can, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người làm chứng thì việc hỏi cung khá phức tạp. Chủ toạ phiên toà phải tiến hành việc xét hỏi phù hợp với tư cách của bị cáo. Ví dụ: trong vụ án cố ý gây thương tích giữa hai nhóm thanh niên đánh nhau dẫn đến cả hai bên đều bị thương thì trước hết chủ tọa phiên tòa phải hỏi các bị cáo với tư cách bị cáo, sau đó tiến hành xét hỏi bị cáo với tư cách khác, nếu có. Đối với bị cáo có lời khai tại phiên tòa không phù hợp với lời khai của Cơ quan điều tra, Kiểm sát viên hoặc trường hợp bị cáo thực hiện quyền im lặng tại phiên tòa thì chủ tọa phiên tòa phải công bố lời khai của bị cáo. bên công tố, đồng thời hỏi bị cáo tại sao lại có sự mâu thuẫn như vậy. Nếu bị đơn không trả lời thì yêu cầu Thư ký phiên tòa ghi vào biên bản. Khi xét bị cáo, Hội đồng xét xử có thể kết hợp hỏi những người tham gia tố tụng khác, bị cáo khác để làm rõ hành vi của bị cáo được hỏi theo quy định tại Điều 307 Bộ luật tố tụng hình sự, nhưng việc này không cần thiết đối với trường hợp xét hỏi bị cáo. Người độc thân. hỏi trước khi hỏi người khác, nhưng có thể phối hợp hỏi cung, chủ tọa xét hỏi trước là đủ, sau khi hỏi những người khác, chủ tịch và những người đã xét hỏi có thể hỏi các bị cáo khác. Trước đây, việc xưng hô với bị cáo tại phiên tòa không theo một nguyên tắc thống nhất, có người gọi bị cáo là anh, chị, ông, bà, cô, chú, thậm chí còn gọi là cháu của bị cáo (nếu bị cáo là con). Vậy gọi như thế nào cho đúng? Đây là vấn đề văn hóa cung đình trong xử lý nhưng chưa được hướng dẫn cụ thể. Tuy nhiên, qua thực tiễn xét xử, theo chúng tôi, gọi là “bị cáo” thì đúng hơn vì hiện nay Bộ luật Hình sự quy định pháp nhân thương mại cũng là chủ thể của tội phạm nên cần thống nhất một danh từ chung là “bị cáo”. . Nói như vậy vừa đúng với tư cách bị cáo, vừa đảm bảo tính thống nhất của phiên tòa, vừa là văn hóa. Chẳng hạn, chủ tọa phiên tòa hỏi “Bị cáo Nguyễn Văn H khai gì tại phiên tòa ngày 1/2/2020?” hay “Bị đơn có đưa tiền cho ông Trần Quang K không?”... Tuy nhiên, nếu bị đơn là pháp nhân thương mại bị kiện thì cách giải quyết cần có sự tư vấn. Ví dụ: Công ty trách nhiệm hữu hạn X bị kiện về tội buôn lậu. Vậy, đại diện Công ty X ra tòa với tư cách bị đơn có đúng không? Theo điều lệ công ty thì người đại diện theo pháp luật là giám đốc hoặc tổng giám đốc nhưng công ty ủy quyền cho người không phải là người đại diện theo pháp luật khởi kiện thì tòa án có thụ lý không? Nếu pháp nhân kinh doanh ra tòa với tư cách là bị đơn thì gọi là "bị đơn" và thêm vị từ "đại diện cho công ty X hay chỉ gọi là "công ty X" thì gọi đơn giản là "Bị đơn" thì được nhầm lẫn với cá nhân, còn nếu chỉ gọi là "Công ty X" thì dễ nhầm với vụ án kinh doanh.Có sự khác nhau về cách tiếp cận bị đơn với tư cách là pháp nhân thương mại, nhưng theo chúng tôi nên thống nhất gọi là “bị đơn đại diện cho công ty…” Đây là câu hỏi mới, chưa có thực tiễn xét xử nên cần Tòa án nhân dân tối cao tư vấn. Việc xét hỏi bị cáo tại phiên tòa sao cho bảo đảm dân chủ, khách quan, công minh, theo đúng tinh thần cải cách tư pháp là một vấn đề đòi hỏi thẩm phán chủ tọa phiên tòa phải có kinh nghiệm, kỹ năng. Thực tiễn xét xử cho thấy, nhiều hội đồng xét xử khi xét hỏi bị cáo đã định kiến sẵn hoặc theo hướng buộc tội hoặc theo hướng gỡ tội, thông qua việc xét hỏi những người dự phiên tòa biết trước hội đồng xét xử sẽ ra bản án như thế nào đối với bị cáo. Khoa học pháp lý coi việc xét hỏi tại phiên tòa là một nghệ thuật, đòi hỏi các thành viên trong hội đồng xét xử, nhất là chủ tọa phiên tòa phải khách quan, không thành kiến hoặc định kiến trước, không quy chụp hoặc đặt câu hỏi theo kiểu bức cung, không giải thích về hành vi của bị cáo có phạm tội hay không phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo; không làm cho bị cáo hoặc những người tham gia phiên tòa biết được ý định của chủ tọa phiên tòa khi chưa tuyên án. Thực tiễn xét xử cho thấy, do thói quen, nhiều thẩm phán chủ yếu muốn sao để cho bị cáo “khuất phục” tại phiên tòa, làm thay việc của kiểm sát viên, chỉ tìm các chứng cứ buộc tội bị cáo nếu sẵn có định kiến là bị cáo có tội hoặc làm thay việc của Luật sư, chỉ tìm những chứng cứ gỡ tội nếu sẵn có định kiến là bị cáo không có tội. Việc xét hỏi nói chung và xét hỏi bị cáo tại phiên tòa nói riêng cũng là vấn đề không chỉ có liên quan đến văn hóa phiên tòa (văn hóa xét xử) mà nó còn là vấn đề về lý luận và thực tiễn đang có nhiều ý kiến đề nghị cần xem xét lại thủ tục xét hỏi tại phiên tòa làm sao để vai trò của hội đồng xét xử chỉ là người điều khiển phiên tòa; hướng dẫn cho những người tham gia tố tụng khai báo tại phiên tòa; điều khiển việc tranh luận giữa một bên là kiểm sát viên, người bị hại, nguyên đơn dân sự, người có quyền lợi liên quan đến vụ án với một bên là bị cáo, người bào chữa, bị đơn dân sự, người có nghĩa vụ liên quan đến vụ án.

Nội dung bài viết:

    Hãy để lại thông tin để được tư vấn

    Họ và tên không được để trống

    Số điện thoại không được để trống

    Số điện thoại không đúng định dạng

    Vấn đề cần tư vấn không được để trống

    comment-blank-solid Bình luận

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo