Báo cáo kiểm toán không chấp nhận toàn phần là một tài liệu quan trọng trong lĩnh vực kiểm toán, đưa ra những đánh giá chính xác về sự tồn tại của rủi ro và sự hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội bộ của một tổ chức. Trong bối cảnh này, chúng ta cùng tìm hiểu về ý nghĩa và những yếu tố quyết định khiến một báo cáo kiểm toán không được chấp nhận toàn phần, mở ra những thách thức và cơ hội cho sự cải thiện trong quản lý và quản trị.
Báo cáo kiểm toán không chấp nhận toàn phần là gì?
1. Báo cáo kiểm toán
1.1 Khái niệm
Báo cáo kiểm toán là văn bản do kiểm toán viên hành nghề, doanh nghiệp kiểm toán, chi nhánh doanh nghiệp kiểm toán nước ngoài tại Việt Nam lập sau khi kết thúc việc kiểm toán, đưa ra ý kiến về báo cáo tài chính và những nội dung khác đã được kiểm toán theo hợp đồng kiểm toán.
Báo cáo kiểm toán phản ánh kết quả của quá trình thu thập, đánh giá và xác thực những con số báo cáo tài chính do bộ phận kế toán cung cấp. Từ đó, đội ngũ kiểm toán sẽ đưa ra nhận định về thực trạng hoạt động tài chính của doanh nghiệp hoặc tổ chức.
1.2 Vai trò
Báo cáo kiểm toán có vai trò quan trọng đối với các bên liên quan như cổ đông, nhà đầu tư, bên tham gia liên doanh, liên kết, khách hàng và tổ chức, cá nhân khác có quyền lợi trực tiếp hoặc liên quan đến đơn vị được kiểm toán.
Báo cáo kiểm toán giúp các bên liên quan xử lý các quan hệ về quyền lợi và nghĩa vụ của các bên có liên quan, đánh giá tính trung thực và hợp lý của báo cáo tài chính, phù hợp với chuẩn mực kế toán, chế độ kế toán do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền ban hành.
Báo cáo kiểm toán cũng giúp các bên liên quan kiểm tra việc tuân thủ pháp luật, quy chế, quy định trong quản lý, sử dụng tiền, tài sản và các nguồn lực khác của đơn vị được kiểm toán, đánh giá tính kinh tế, hiệu lực và hiệu quả trong quản lý, sử dụng tiền, tài sản và các nguồn lực khác của đơn vị được kiểm toán.
1.3 Mục tiêu
Mục tiêu của báo cáo kiểm toán là cung cấp cho người sử dụng báo cáo tài chính một ý kiến kiểm toán độc lập về việc liệu báo cáo tài chính có được lập, trên các khía cạnh trọng yếu, phù hợp với khuôn khổ về lập và trình bày báo cáo tài chính được áp dụng hay không.
Mục tiêu của báo cáo kiểm toán cũng là cung cấp cho người sử dụng báo cáo tài chính những thông tin khác liên quan đến báo cáo tài chính, như phạm vi kiểm toán, trách nhiệm của kiểm toán viên và Ban Giám đốc, những vấn đề trọng yếu trong quá trình kiểm toán, những điểm cần lưu ý trong báo cáo tài chính, những điều chỉnh hoặc bổ sung cần thiết cho báo cáo tài chính.
2. Báo cáo kiểm toán không chấp nhận toàn phần là gì?
Báo cáo kiểm toán không chấp nhận toàn phần là báo cáo kiểm toán mà trong đó kiểm toán viên đưa ra ý kiến kiểm toán không phải là ý kiến chấp nhận toàn phần trên báo cáo tài chính của đơn vị được kiểm toán.
Báo cáo kiểm toán không chấp nhận toàn phần có thể là báo cáo kiểm toán có ý kiến chấp nhận từng phần, báo cáo kiểm toán có ý kiến không chấp nhận (hoặc ý kiến trái ngược), hoặc báo cáo kiểm toán có ý kiến từ chối (hoặc không thể đưa ra ý kiến).
Báo cáo kiểm toán có ý kiến chấp nhận từng phần được đưa ra khi kiểm toán viên kết luận rằng các sai sót, xét riêng lẻ hay tổng hợp lại, có ảnh hưởng trọng yếu nhưng không lan tỏa đối với báo cáo tài chính; hoặc kiểm toán viên bị giới hạn công tác kiểm toán, không thể thu thập được đầy đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp để làm cơ sở đưa ra ý kiến kiểm toán, nhưng kiểm toán viên kết luận rằng những ảnh hưởng có thể có của các sai sót chưa được phát hiện (nếu có) có thể là trọng yếu nhưng không lan tỏa đối với báo cáo tài chính.
Báo cáo kiểm toán có ý kiến không chấp nhận (hoặc ý kiến trái ngược) được đưa ra khi kiểm toán viên kết luận rằng các sai sót, xét riêng lẻ hay tổng hợp lại, có ảnh hưởng trọng yếu và lan tỏa đối với báo cáo tài chính. Loại báo cáo này được phát hành khi phạm vi kiểm toán bị giới hạn nghiêm trọng hoặc các tài liệu quá mập mờ, không rõ ràng khiến kiểm toán viên không thể tiến hành kiểm toán theo chương trình đã định.
Báo cáo kiểm toán có ý kiến từ chối (hoặc không thể đưa ra ý kiến) được đưa ra khi kiểm toán viên không thể thu thập được đầy đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp để làm cơ sở đưa ra ý kiến kiểm toán và kiểm toán viên kết luận rằng những ảnh hưởng có thể có của các sai sót chưa được phát hiện (nếu có) có thể là trọng yếu và lan tỏa đối với báo cáo tài chính.
3. Nguyên nhân dẫn đến việc kiểm toán viên phát biểu ý kiến không chấp nhận toàn phần
- Có các sai sót trọng yếu trong báo cáo tài chính, như sai lệch số liệu, vi phạm chuẩn mực kế toán, không tuân thủ các quy định về lập và trình bày báo cáo tài chính, không thể cung cấp đầy đủ các thông tin bổ sung cần thiết.
- Có các hạn chế trong quá trình kiểm toán, như không thể tiếp cận được các tài liệu, bằng chứng, nguồn thông tin liên quan đến báo cáo tài chính, không thể thực hiện được các thủ tục kiểm toán cần thiết, không thể có được sự hợp tác từ phía đơn vị được kiểm toán, không thể đánh giá được các rủi ro kiểm toán.
- Có các bất đồng về các vấn đề chuyên môn, như cách áp dụng các chuẩn mực kế toán, cách xử lý các giao dịch, sự kiện kinh tế, cách đánh giá các khoản mục trong báo cáo tài chính, cách lập và trình bày báo cáo tài chính giữa kiểm toán viên và đơn vị được kiểm toán.
- Có các yếu tố khách quan, như thay đổi về pháp luật, chính sách, thị trường, môi trường kinh doanh, công nghệ, hay các sự kiện bất khả kháng ảnh hưởng đến báo cáo tài chính và quá trình kiểm toán.
Nội dung bài viết:
Bình luận